Trung đoàn 22 – Sư đoàn 3 Sao Vàng (Phần thứ nhất)

NGUYỄN TIẾN ĐÍCH
PHẠM QUỐC BẢO – TRẦN QUÝ ĐÔN
(Đồng chủ biên)
———-

sao vang

TRUNG ĐOÀN 22
SƯ ĐOÀN 3 – SAO VÀNG

 

 

 

P1-01
Bác Hồ  với các Anh hùng và Dũng sĩ miền Nam. Ảnh tư liệu.

TẬP THỂ TÁC GIẢ

Nguyễn Tiến Đích (Chủ biên)
Phạm Quốc Bảo (Đồng chủ biên)
Trần Quý Đôn (Đồng chủ biên)

– Thanh Anh – Phạm Thái Lai
– Lê Trần Bích – Điền Thị Kim Liên
– Nguyễn Ngọc Chiểu – Nguyễn Thắng Lợi
– Hà Xuân Đài – Lê Văn Lý
– Nguyễn Văn Đạo – Nguyễn Thị Bích Ngọc
– Mai Minh Đoan – Lưu Đình Quyết
– Nguyễn Ngọc Hải – Lê Anh Sáng
– Phan Anh Hào – Phạm Xuân Sinh
– Phạm Văn Hinh – Nguyễn Văn Tâm
– Nguyễn Văn Hồng – Tập thể chiến sĩ

   Sư đoàn 3 – Sao vàng

 

Sưu tầm tư liệu, ảnh: Phạm Quốc Bảo

 

 

NHÓM BIÊN SOẠN

P1-02

Trung tá Nguyễn Tiến Đích, bút danh là Thanh Sơn. Sinh năm 1941 tại xã Ninh Thành, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình.
1959 – 1990: Bộ đội, qua các đơn vị: Sư đoàn 304 Quân khu Hữu Ngạn; Trung đoàn 22 – Sư đoàn 3 Sao Vàng, Quân khu 5 (1965 – 1975); Sư đoàn bộ binh 3 Quân khu 1 (1976 – 1985); Quân khu Thủ đô Hà Nội (1986 – 1990).
Các tác phẩm chủ biên đã xuất bản:
(1) Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân phường Văn Miếu (1930 – 2010). Nhà xuất bản Hồng Đức (2012).
(2) Trung đoàn 22 – Sư đoàn 3 Sao Vàng. Nhà xuất bản Thông tấn (2016).
Các tác phẩm tham gia biên soạn đã xuất bản:
(1) Sư đoàn Sao Vàng – Ký sự. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (1984).
(2) Dấu chân Sư đoàn – Truyện và ký. Sở Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình và Sư đoàn Sao Vàng (1985).
(3) Ký ức Sư đoàn (Tập I, II, III, IV). Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (1995, 2005, 2010, 2015).
(4) Lịch sử Sư đoàn 3 Sao Vàng (1965 – 2010). Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (2010).
(5) Thủ đô Hà Nội, Lịch sử Kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954). Nhà xuất bản Hà Nội (1986).
(6) Thủ đô Hà Nội, Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975). Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (1991).
Địa chỉ: Số nhà 33/36 phố Ngô Sĩ Liên, phường Văn Miếu, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Điện thoại: 097 6087 628, (04) 3733 2112.

 

 P1-03

Luật sư Phạm Quốc Bảo. Sinh năm 1947 tại xã Đông Lỗ, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội).
1965 – 1971 tham gia Lực lượng vũ trang Nhân dân: Ty Công an Hà Tây; Trung đoàn 4, Sư đoàn 320B, Quân khu 3; Trung đoàn 22 – Sư đoàn 3 Sao Vàng, Quân khu 5; Đoàn 587 Quân khu Hữu Ngạn.
Năm 1978 tốt nghiệp Khoa Luật, Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Azerbaijan (Liên Xô), mang tên Sergei Mironovich Kirov. Năm 1992 tốt nghiệp Khoa tiếng Anh Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội.
Nguyên: Vụ trưởng Vụ Đối ngoại, Văn phòng Quốc hội; Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Cộng hòa Bungari kiêm nhiệm Cộng hòa Maxêđônia.
Các tác phẩm chủ biên đã xuất bản: (1) Liên minh Nghị viện Thế giới – IPU. Văn phòng Quốc hội (2003); (2) Việt Nam đất nước con người (tiếng Bungari). Đại sứ quán Việt Nam tại Bungari (2008); (3) Hồ Chí Minh trên đất nước Hoa Hồng. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2008); (4) Hồ Chí Minh với tình hữu nghị Việt Nam – Bungari (tiếng Bungari). Đại sứ quán Việt Nam tại Bungari (2009); (5) Đồng chủ biên: Trung đoàn 22 – Sư đoàn 3 Sao Vàng. Nhà xuất bản Thông tấn (2016).
Các tác phẩm tham gia biên tập đã xuất bản: (1) Nghị viện các nước trên thế giới. Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội (1999); (2) Tổ chức Liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – AIPO. Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội (2002); (3) Đại hội đồng AIPO 23 – Dấu ấn Việt Nam. Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội (2003); (4) Quốc hội Việt Nam với Liên minh Nghị viện Thế giới. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2015); (5) Ký ức Sư đoàn (Tập IV). Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (2015).
Giải thưởng:
– Tác phẩm ảnh “Đảo Bạch Long Vĩ trong ngày bầu cử Hội đồng Nhân dân các cấp” đoạt Giải Nhì (giải cao nhất) do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức năm 2004.
– Tác phẩm “Nhìn lại Đại hội đồng IPU-66 và bản lĩnh của Quốc hội Việt Nam” đoạt Giải B – Giải báo chí “70 năm Quốc hội Việt Nam” do Văn phòng Quốc hội và Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức, trao giải ngày 28-12-2015.
Triển lãm ảnh “Việt Nam và Bungari trong trái tim tôi” do Bộ Văn hóa Bungari tổ chức tại thủ đô Sofia từ ngày 05 – 11/ 11-2008.
Điện thoại: 098 2667 224; (04) 3945 4968.
E-mail: pqbaods@gmail.com

 

 

P1-04

Trung tá Trần Quý Đôn, bút danh là Trần Tiến Dũng. Sinh năm 1942 tại tỉnh Thanh Hóa.
1962 – 1990: Bộ đội, qua các đơn vị: Trung đoàn 239 Công binh (1962 – 1965); Trung đoàn 22 – Sư đoàn 3 Sao Vàng, Quân khu 5 (1965 – 1970): Tham mưu trưởng Tiểu đoàn 7 rồi Trợ lý tác chiến Trung đoàn 22; Tỉnh đội Phú Yên (1970 – 1974): Tham mưu trưởng, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 13 và Tiểu đoàn 9; Trường quân chính Quân khu 5 (1974 – 1978); Mặt trận 579 Campuchia (1979 – 1989): Chuyên gia.
Các tác phẩm đã xuất bản:
– Những mẩu chuyện về người lính (Tập truyện ngắn). Nhà xuất bản Thanh Hóa (2010).
– Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Sư đoàn 3 Sao Vàng (1965 – 2015), có 2 truyện ngắn và 1 bài thơ được tuyển chọn đăng trong Ký ức Sư đoàn (Tập IV). Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (2015).
– Đồng chủ biên: Trung đoàn 22 – Sư đoàn 3 Sao Vàng. Nhà xuất bản Thông tấn (2016).
Giải thưởng: Truyện ngắn “Lòng dân một vùng Đông” đoạt Giải Nhì cuộc thi “Nhật ký Chiến sĩ” do Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam và VTV3 tổ chức năm 2012.
Địa chỉ: Số 6/15, đường Lê Thạch, phường Trường Thi, thành phố Thanh Hóa.
Điện thoại: 098 3687 845, (037) 3857 062.

LỜI MỞ ĐẦU

          Trung đoàn 22, nguyên là Trung đoàn 1 thuộc Quân khu Hữu Ngạn được thành lập tháng 3-1965 tại xóm Rổng Tằm, xã Lâm Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Sau thời gian tập trung học tập và rèn luyện tại Đoàn 32, Quân khu Hữu Ngạn đóng trên địa bàn huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, ngày 15-6-1965, Trung đoàn lên đường hành quân vào chiến trường miền Nam.

          Trong 5 năm (1965 – 1970) ở chiến trường Trung bộ, Trung đoàn 22 luôn tác chiến ở những địa bàn nóng bỏng, ác liệt nhất phía Bắc tỉnh Bình Định, đặc biệt là trong hai cuộc phản công chiến lược của đế quốc Mỹ mùa khô 1966, 1967 và năm 1968 tại các huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ. Đối tượng tác chiến của Trung đoàn là những đơn vị tinh nhuệ của Mỹ, ngụy như: Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 Mỹ, Lữ đoàn Không vận 173 Mỹ, Sư đoàn 2 và Sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hòa (ngụy quân Sài Gòn)… Trung đoàn đã đánh những trận xuất sắc ở Minh Long, Bồng Sơn, Chợ Cát, An Thái, Đồi Mười, Thành Sơn, An Quý…, và tập kích diệt gọn một tiểu đoàn pháo binh cùng 2 đại đội bộ binh, 1 trung đội công binh Mỹ, bắt sống một lính Mỹ ở đồi Xuân Sơn, xã Ân Hữu, huyện Hoài Ân năm 1966. Với chiến công xuất sắc này, Trung đoàn được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì. Từ năm 1965 đến đầu năm 1970, còn biết bao trận chiến đấu ác liệt trong những năm tháng cùng địa phương trụ bám đánh địch liên tục ở chiến trường Bình Định và Quảng Ngãi.

          Do yêu cầu của chiến trường, để phù hợp với tính chất hoạt động mới và tăng cường lực lượng cho các địa phương trong giai đoạn phá tan kế hoạch “bình định nông thôn” của Mỹ, ngụy; tháng 2-1970, Quân khu 5 quyết định phân tán Trung đoàn 22 bổ sung cho các tỉnh đội: Tiểu đoàn 7 ra Quảng Ngãi, Tiểu đoàn 8 ở Bình Định, Tiểu đoàn 9 vào Phú Yên; số còn lại bổ sung cho Trung đoàn 2, Trung đoàn 12 và Sư đoàn bộ. Đến đây, phiên hiệu Trung đoàn 22 – “Quyết Tâm” đã đi vào lịch sử của Sư đoàn 3 – Sao Vàng, Quân đội Nhân dân Việt Nam, và chỉ còn dấu ấn trong ký ức của mỗi cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 22.

          Chiến tranh đã qua 40 năm, mọi đau thương, mất mát đã phần nào nguôi ngoai, nhưng những kỷ niệm đầu đời của người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam thì vẫn rất sâu nặng trong tâm khảm của mỗi chiến sĩ Trung đoàn.

          Những chiến sĩ của Trung đoàn 22 năm ấy, nay đang sống ở khắp mọi miền của Tổ quốc, tuy cuộc sống ổn định, nhưng họ vẫn cảm thấy còn thiếu một điều gì đó. Anh em muốn nhớ lại, hình dung lại những gì đã được, đã mất trong cuộc chiến vô cùng khốc liệt để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, mà chính bản thân mình đã từng tham gia. Nhóm biên soạn cũng là một trong những người trong tâm trạng ấy.

          Qua thời gian trăn trở, chúng tôi đã tìm kiếm, sưu tầm tư liệu, gặp gỡ những người đã từng lãnh đạo, chỉ huy và các chiến sĩ ở Trung đoàn thời kỳ ấy để thu thập thông tin biên soạn cuốn sách: Trung đoàn 22 Sư đoàn 3 Sao Vàng. Cuốn sách gồm hai phần:

          – Phần thứ nhất nói về lịch sử Trung đoàn (sự ra đời và trưởng thành của Trung đoàn 22 từ năm 1965 đến đầu năm 1970);

          – Phần thứ hai gồm những bài viết của cán bộ, chiến sĩ Cựu chiến binh Trung đoàn 22 và Sư đoàn 3 – Sao Vàng.

          Chúng tôi coi đây là nén tâm nhang tưởng nhớ hàng nghìn đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất Thạch Trụ, Minh Long, Hà Thành, Bồng Sơn, Chợ Cát, Xuân Sơn và nhiều địa danh khác trên dải đất miền Trung bất khuất, kiên cường. Đồng thời đây cũng là tấm lòng tri ân đồng đội và đồng bào ở những nơi Trung đoàn 22 hoạt động trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy hy sinh gian khổ.

          Dù đã rất cố gắng, nhưng do thời gian qua đi quá lâu, chiến tranh đã lùi xa, tư liệu hạn chế, những cựu chiến binh Trung đoàn 22 không còn nhiều. Xin nói thêm, lúc hành quân vào chiến trường miền Nam năm 1965, quân số của Trung đoàn trên 2000 cán bộ, chiến sĩ. Trong gần 5 năm chiến đấu (1965 – 1970), Trung đoàn được bổ sung với một quân số tương tự, vậy mà sau chiến tranh (năm 1975) điểm lại chỉ còn vài ba trăm đồng chí sống, làm việc, công tác rải rác suốt từ Bắc vào Nam. Vì vậy, nội dung của cuốn sách chưa thật đầy đủ, mong đồng đội và độc giả thông cảm.

          Vì số lượng bản in có hạn nên chúng tôi chuyển tải nội dung cuốn sách này lên trang tin điện tử: http://www.quyettamdoan.wordpress.com để bạn đọc có thể truy cập dễ dàng.

Hà Nội, ngày 15 tháng 03 năm 2016
Nhóm biên soạn

Địa chỉ liên hệ – Email: quyettamdoan@gmail.com

 

Phần thứ nhất
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA TRUNG ĐOÀN 22

  1ĐỊA BÀN TRỌNG ĐIỂM CỦA MỘT CHIẾN TRƯỜNG TRỌNG ĐIỂM

P1-1
Bộ đội hành quân vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Ảnh tư liệu.

          Cuối năm 1964, đầu năm 1965, những cuộc tiến công ở cả ba vùng chiến lược rừng núi, nông thôn, thành thị và sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang của quân dân miền Nam đã phát triển tới đỉnh cao chưa từng có.

          Chiến trường Khu 5 hồi đó gồm chín tỉnh: Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Công Tum, Gia Lai, Đắc Lắc. Trong số chín tỉnh thì sáu tỉnh là vùng đồng bằng ven biển trù phú, ba tỉnh là miền rừng núi Tây Nguyên hiểm trở. Khu 5 đông dân cư, có nhiều sân bay, bến cảng lớn như sân bay Đà Nẵng, Chu Lai (Quảng Nam), Gò Hội (Quảng Ngãi), Gò Quánh (Bình Định), Thành Sơn (Ninh Thuận)… Các bến cảng Sơn Trà (Quảng Đà), Quy Nhơn (Bình Định), Cam Ranh (Khánh Hòa) là các quân cảng lớn có thể tập kết những tàu biển hàng vạn tấn. Ba con đường chiến lược quan trọng là đường số 19 (Bình Định), đường số 21 (Khánh Hòa) và đường số 7 (Phú Yên) là những con đường nối liền đồng bằng ven biển với các tỉnh Tây Nguyên.

          Địa hình Khu 5 hiểm trở, đồi núi và đồng bằng xen kẽ. Ở nhiều nơi dãy Trường Sơn nhô ra sát biển, thuận lợi cho quân ta tập kết, chuẩn bị những trận đánh lớn chia cắt chiến trường.

P1-2
Bộ đội hành quân vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Ảnh tư liệu.

          Do địa bàn chiến lược xung yếu như vậy nên Đảng bộ Khu 5 đã sớm chú ý tới việc xây dựng lực lượng vũ trang. Ngày 20-7-1961, sau hai năm nổ ra cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Trà Bồng (Quảng Ngãi), Bộ tư lệnh Quân khu 5 được thành lập và đến tháng 5-1964, Mặt trận Tây Nguyên ra đời. Cuối mùa hè năm 1965, khối chủ lực của Quân khu lên tới bảy trung đoàn. Các tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh, đại đội huyện không ngừng phát triển. Các trung đội du kích được thành lập ở hầu khắp các thôn, xã.

          Phối hợp với chiến trường toàn miền, Bộ tư lệnh Quân khu 5 liên tiếp mở những đợt hoạt động lớn, điển hình là đợt hoạt động An Lão (tháng 12-1964). Tại thung lũng dài trên 20 kilômét này, Trung đoàn 2, nòng cốt của Sư đoàn Sao Vàng sau này cùng với Tiểu đoàn Đặc công Quân khu và các lực lượng vũ trang địa phương, trong hai ngày đã tiêu diệt, bắt sống toàn bộ quân địch, giải phóng hoàn toàn huyện An Lão.

P1-3
Đồng chí Chu Huy Mân, Tư lệnh Quân khu 5 giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 3trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Tiếp đó là đợt hoạt động Xuân 1965. Các đơn vị chủ lực và địa phương đã đánh một số trận xuất sắc, tiêu diệt gần hết hai Tiểu đoàn bộ binh, một chi đoàn xe bọc thép M113 của Sư đoàn 22 ngụy tại Đèo Nhông (Bình Định), tập kích căn cứ quân sự Hôluuây của Mỹ tại Plây Cu, diệt 300 tên, phá hủy 42 máy bay, làm chấn động dư luận cả nước Mỹ… Trong đợt hoạt động hè, bộ đội chủ lực và địa phương lại giành thắng lợi ở Ba Gia (Quảng Ngãi), tiêu diệt gọn Chiến đoàn 51 ngụy. Ở Tây Nguyên, sau khi cắt đứt các con đường chiến lược 19, 21, 7, ta tiến hành bao vây quận lỵ Thuần Mẫn, phục kích đánh thiệt hại nặng một chiến đoàn dù tổng dự bị chiến lược của địch lên giải tỏa, buộc địch phải rút bỏ Thuần Mẫn, giải phóng một vùng đất rộng lớn từ Thuần Mẫn đến Cheo Reo.

P1-4
Lữ đoàn không vận số 2, Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 Mỹ đổ bộ vào Quy Nhơn, 19-9-1965. Ảnh: Francois Sully.

          Khu 5 có phong trào đấu tranh chính trị phát triển cao. Trong sáu tháng cuối năm 1964, được sự hỗ trợ của các lực lượng vũ trang, nhân dân đã nổi đậy phá 1.080 “ấp chiến lược” ở đồng bằng và 292 ấp ở miền núi, chiếm 50 phần trăm tổng số “ấp chiến lược” toàn khu, giải phóng hoàn toàn 123 xã, đưa số dân làm chủ lên tới 1,5 triệu người.

          Tháng 8 năm ấy, cuộc nổi dậy của đồng bào Đà Nẵng chống tập đoàn Khánh – Hương kéo dài liên tục tám ngày, làm tan rã tinh thần binh lính ngụy. Trong đợt hoạt động Xuân Hè, đồng bào ở các huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy phước (Bình Định) đồng loạt nổi dậy, giải phóng huyện Vân Canh, thị trấn Tam Quan, làm chủ đoạn đường số 1 từ Tài Lương tới Bình Đê, nơi tiếp giáp giữa Quân khu 2 và Quân khu 1 ngụy.

P1-5
Sư đoàn “Mãnh hổ” Nam Triều Tiên đổ bộ vào Quy Nhơn tháng 10-1965. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Ở Quảng Ngãi, 10 vạn quần chúng ở các huyện Nam, Bắc sông Trà Khúc kéo vào thị xã Quảng Ngãi đòi quân Mỹ rút về nước, đòi xác chồng con bị chết trận. Ở các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Trà Bồng… đồng bào liên tục nổi dậy, phá “ấp chiến lược” ở 27 xã, 20 vạn dân đã giành được quyền làm chủ. Những cuộc tiến công của bộ đội chủ lực và địa phương, kết hợp với phong trào nổi dậy của quần chúng trong những đợt hoạt động trên, đã hình thành một hình thức hoạt động mới ở Khu 5: hình thức tiến công tổng hợp.

          Trước những thất bại liên tiếp của quân ngụy, tháng 3 và tháng 5 năm 1965, hai Sư đoàn Lính thủy đánh bộ số 1 và số 3 Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, Chu Lai (Quảng Nam); Lữ đoàn 1, Sư đoàn dù 11 Mỹ đến Cam Ranh (Khánh Hòa). Tháng 9-1965, Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 Mỹ đến An Khê (Gia Lai). Tháng 10, Sư đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên vào Quy Nhơn, Nha Trang và Lữ đoàn 1, Sư đoàn Rồng Xanh Nam Triều Tiên đổ bộ vào Tuy Hòa (Phú Yên). Cùng với quân lính, một khối lượng vũ khí, trang bị khổng lồ gồm 1.200 máy bay, 600 khẩu pháo, 855 xe tăng, xe bọc thép đã đổ bộ lên bờ biển Khu 5.

P1-6
Đồng bào miền Nam biểu tình đòi quân Mỹ rút về nước. Ảnh tư liệu.

          Việc quân Mỹ đổ bộ ồ ạt vào chiến trường Khu 5 làm cho so sánh lực lượng giữa ta và địch thay đổi. Tình hình đó đặt ra cho Bộ tư lệnh Quân khu phải có những trận đánh tập trung lớn hơn vào cả quân Mỹ và quân ngụy, phải có những đơn vị lớn hơn. Cụ thể phải có những quả đấm của các Sư đoàn chủ lực cơ động hoặc cắm sâu ở các địa bàn trọng yếu, mới có thể đáp ứng kịp đòi hỏi của phong trào cách mạng.

          Tháng 8-1965. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Khu 5: Cố gắng xây dựng lực lượng vũ trang, tập trung xây dựng chủ lực là chính, chú ý chăm sóc phong trào chiến tranh du kích và chỉ đạo tác chiến đối với bộ đội địa phương…

P1-7
Các chiến sĩ vận chuyển lương thực vào chiến trường. Ảnh tư liệu.

          Thời gian này, tuyến vận tải chiến lược ở Quân khu 5 đã được củng cố và mở rộng. Những con đường mòn xuyên rừng, xuyên biển lần lượt đến các chiến trường. Mức độ chi viện các mặt của miền Bắc cho Khu 5 được tăng lên. Hai Trung đoàn bộ binh 21 và 22, một số Tiểu đoàn hỏa lực cùng một khối lượng lớn vật chất kỹ thuật được bổ sung cho Khu 5… Ở các vùng giải phóng, sau khi quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, gần 5.000 thanh niên Nam nữ các tỉnh Bình Định, Gia Lai, Quảng Ngãi… hăng hái xung phong nhập ngũ. Hàng vạn tấn gạo, lương thực, thực phẩm cung cấp cho các đơn vị chủ lực được dân công chuyển đến các kho trạm dự trữ trên căn cứ.

          Những điều kiện để hình thành các Sư đoàn chủ lực của Khu 5 đã chín muồi.
Ngày 9-8-l965, Thường vụ Đảng ủy Quân khu họp ra Nghị quyết thành lập các Sư đoàn chủ lực:
Sư đoàn 2 với hai Trung đoàn bộ binh 1 và 21 cùng một số tiểu đoàn trực thuộc.
Sư đoàn 3 với ba Trung đoàn bộ binh 2, 12 và Trung đoàn 22 ở miền Bắc mới vào, cùng một Tiểu đoàn Pháo cối, Tiểu đoàn Cao xạ 12,7 ly, Tiểu đoàn Cối 120 ly Tiểu đoàn Công binh, Tiểu đoàn Thông tin, Tiểu đoàn Quân y, Tiểu đoàn Vận tải; Đại đội Trinh sát, Đại đội Vệ binh…
Sư đoàn 2 phụ trách chiến trường chính của Quân khu từ tỉnh Quảng Ngãi ra Quảng Nam.
Sư đoàn 3 lấy Nam Quảng Ngãi và Bình Định làm địa bàn hoạt động chủ yếu.

          Về quân sự, vùng Sư đoàn 3 hoạt động có núi, đồng bằng ven biển xen kẽ thuận tiện cho việc triển khai lực lượng, vừa lợi thế công, vừa vững thế thủ. Đây còn là nơi tiếp giáp giữa vùng chiến thuật 1 và vùng chiến thuật 2 của quân ngụy, ta có thể tạo thế chia cắt chiến lược hết sức lợi hại. Bình Định là ngã ba của hai con đường chiến lược lớn: số 1 và số 19 nối cảng Quy Nhơn với Plây Cu, trung tâm của Tây Nguyên. Tướng Oétmolen đã từng nói, mất Bình Định miền Trung sẽ bị cắt đôi ở quãng giữa và sẽ mất một đầu cầu chiến lược quan trọng nuôi sống các tỉnh Tây Nguyên.

          Đứng chân ở địa bàn tỉnh Bình Định và Nam tỉnh Quảng Ngãi, Sư đoàn 3 cùng một lúc phải đảm nhiệm hai nhiệm vụ quan trọng: Đánh vào phía sau quân địch và cô lập chúng khi ta tiến công Tây Nguyên, tạo thế chia cắt chiến dịch khi ta tiến công đồng bằng ven biển. Sư đoàn còn là lực lượng cơ động của Quân khu khi cuộc tiến công phát triển về phía Nam.

P1-8
Các chiến sĩ vận tải vận chuyển vũ khí vào chiến trường cho Sư đoàn 3. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Sau đợt hoạt động Hè 1965, vùng giải phóng Nam Quảng Ngãi và Bắc Bình Định đã được mở rộng, có thể dung nạp từ hai đến ba trung đoàn chủ lực đứng chân và hoạt động. Đặc biệt là đồng bào hai tỉnh vốn có truyền thống kiên cường, bất khuất là nhân tố thường xuyên làm tăng thêm sức mạnh của Sư đoàn: Đó là một địa bàn trọng điểm của một chiến trường trọng điểm, nơi Sư đoàn Sao Vàng ra đời hoạt động trong suốt mười năm chiến đấu anh dũng và thắng lợi vẻ vang.

 2THÀNH LẬP SƯ ĐOÀN 3 SAO VÀNG

P1-9
Các chiến sĩ tiến công địch. Ảnh tư liệu.

          Ngày 2-9-1965, vào đúng ngày kỷ niệm lần thứ 20 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, tại khu rừng Bà Bơi, xã Ân Nghĩa (nay là xã Bok Tới), huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, lễ thành lập Sư đoàn 3 đã diễn ra giản dị và trang nghiêm với sự có mặt của đại diện cán bộ và chiến sĩ Trung đoàn 2, Trung đoàn 12, Trung đoàn 22, đại diện các Đảng bộ và đoàn thể tỉnh Bình Định, huyện Hoài Ân. Bộ tư lệnh Sư đoàn gồm các đồng chí Giáp Văn Cương, Sư đoàn trưởng; Đặng Hoà, Chính uỷ; Huỳnh Hữu Anh, Phó Sư đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn; Nguyễn Nam Giới, Phó Chính uỷ kiêm Chủ nhiệm Chính trị.

          Gần một nghìn người đều chăm chú lắng nghe, đều thấy như ý chí, tình cảm và nguyện vọng của mình đang được các đồng chí Chỉ huy Sư đoàn và đại diện Tỉnh Đảng bộ nói lên bằng những lời sâu sắc nhất, tâm huyết nhất.

P1-10
Đồng chí Bảy Hữu, Thường vụ Khu ủy Khu 5 và đồng chí Mai Tân, Chính ủy Sư đoàn 3 gặp mặt cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 3. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Kết thúc buổi lễ, khẩu hiệu hành động: “Trung thành – anh dũng – ra trận là chiến thắng – gặp địch là tiêu diệt – Quyết tâm – Quyết chiến – Quyết thắng giặc Mỹ xâm lược” được mọi người hô vang như một lời thề. Quyết tâm, Quyết chiến, Quyết thắng cũng là mật danh của ba Trung đoàn 22, 2, 12.

          Việc ra đời của Sư đoàn 3 và Sư đoàn 2 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt, không những của lực lượng vũ trang Quân khu, mà còn đánh dấu sự phát triển cao của phong trào cách mạng Khu 5. Đây là bước phát triển tất yếu theo quy luật chiến tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta.

          Trong bối cảnh quân ngụy đang suy yếu, quân Mỹ và chư hầu vội vàng nhảy vào miền Nam, các Sư đoàn chủ lực Quân khu 5 có nhiệm vụ tiếp tục đánh cho ngụy quân, ngụy quyền sụp đổ và đánh phủ đầu quân viễn chinh Mỹ, quân chư hầu vừa mới nhảy vào cho đến khi thắng lợi hoàn toàn. Sự ra đời của các Sư đoàn chủ lực của Khu 5 không chỉ phản ánh sự phát triển tất yếu của chiến tranh nhân dân mà còn đáp ứng rất đúng lúc, rất kịp thời cuộc chiến tranh giải phóng đang trên đà thắng lợi.

P1-11
Đồng bào tỉnh Bình Định tiễn con em lên đường gia nhập Sư đoàn 3 năm 1965. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Với các Sư đoàn chủ lực của mình, từ nay các lực lượng vũ trang và nhân dân Khu 5 đã có khả năng đập tan những đơn vị lớn của quân ngụy mà lực lượng du kích không sao giải quyết nổi, đồng thời có đủ sức để đương đầu với đội quân xâm lược Mỹ và chư hầu.

          Riêng với địa bàn Quảng Ngãi, Bình Định, việc xuất hiện một Sư đoàn chủ lực chứng tỏ sự lớn mạnh của phong trào cách mạng. Không có phong trào cách mạng của quần chúng ở Quảng Ngãi, Bình Định sẽ không thể có sự ra đời của Sư đoàn 3. Trong lịch sử của Quân đội ta, không có sư đoàn chủ lực nào không được hình thành, ra đời từ phong trào cách mạng của Nhân dân. Nhân dân tác thành, Nhân dân nuôi dưỡng. Nhân dân Bình Định và Quãng Ngãi thực sự là người mẹ đẻ của Sư đoàn 3 từ lúc ra đời cho đến lúc khôn lớn, trưởng thành. Mặt khác, sự ra đời của Sư đoàn 3 chứng tỏ vị trí hết sức quan trọng của vùng địa bàn mà Sư đoàn chủ lực này đứng chân trong suốt cuộc chiến tranh.

P1-12
Hội nghị mừng công mùa khô 1970 – 1971. Ảnh tư liệu.

          Đêm 2-9-1965, Đảng uỷ Sư đoàn họp phiên đầu tiên để thảo luận, quán triệt tính chất và nhiệm vụ của Sư đoàn 3 là Sư đoàn cơ động của Quân khu 5, của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trước mắt, Sư đoàn nhận nhiệm vụ chiến đấu chủ yếu ở các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắc Lắc, lấy Bình Định, Quảng Ngãi làm hậu cứ, làm bàn đạp.

          Để luôn nhớ tới lời thề thiêng liêng của cán bộ, chiến sĩ trước quốc kỳ, Đảng uỷ Sư đoàn đề nghị Quân khu cho Sư đoàn được mang tên “Đoàn Sao Vàng”. Lấy hình ảnh “Sao Vàng”, Đảng ủy muốn nhắc nhở cán bộ chiến sĩ hãy dũng cảm chiến đấu vì lá cờ vinh quang của Tổ quốc, vì một nước Việt Nam độc lập và thống nhất.

          “Bộ đội Sao Vàng”, “Sư đoàn Sao vàng”, tên gọi đó không chỉ làm cho cán bộ, chiến sĩ trong Sư đoàn tự hào mà còn làm cho nhân dân địa phương phấn khởi, tự hào. Bộ đội Sao Vàng đem đến cho nhân dân hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đã thắng Pháp năm xưa. “Bộ đội Sao Vàng đã về, xóm làng ta sẽ được giải phóng, bà con ta sẽ được sống tự do, hạnh phúc…”. Bởi vậy, “gạo, khoai, sắn khô, thực phẩm, lương khô này là dành cho bộ đội Sao vàng…”. Tất cả những gì yêu thương nhất, đằm thắm nhất, người dân miền Trung, người dân Quảng Ngãi, Bình Định đều dành cho Sư đoàn Sao Vàng, coi đó như một biểu tượng về sự lớn mạnh của cách mạng, về lòng tin sắt son với Đảng quang vinh, với Bác Hồ kính yêu.

          Bắt đầu từ ngày 2-9-1965, danh từ Sao Vàng luôn luôn được nhắc nhở dưới các nếp nhà tranh, dưới rặng dừa và cả trong các thị trấn, thành phố. Khi có đợt tuyển quân, ai cũng mong muốn con em mình được làm chiến sĩ của Bộ đội Sao Vàng. Du kích các xã, bộ đội các huyện cũng lựa chọn những đồng chí xứng đáng nhất bổ sung cho Sư đoàn Sao Vàng. Nhiều nữ thanh niên xung phong đi dân công, đến thăm thương binh đã tình nguyện xin ở lại để được trở thành chiến sĩ của Sư đoàn Sao Vàng.

          Cũng bắt đầu từ ngày 2-9-1965, hai tiếng “Sao Vàng” đã thường xuyên ám ảnh và trở thành nỗi lo lắng ngày đêm đối với bọn ngụy quân, ngụy quyền, nhất là bọn ác ôn, đối với cả quân Mỹ và quân chư hầu dã man, tàn ác.

          Ba Trung đoàn (2, 12, 22) ba sắc thái khác nhau, khi cùng nhau tập họp trong đội hình Sư đoàn, những truyền thống tốt đẹp ấy là cái vốn quý báu để viết nên những trang sử vẻ vang của Sư đoàn Sao Vàng sau này.

P1-13
Các chiến sĩ vận tải chuyển hàng trong chiến trường. Ảnh tư liệu.

          Hạt giống tốt được gieo trồng trên mảnh đất tốt, lại được Đảng và nhân dân chăm sóc chắc chắn sẽ mọc lên một cây xanh tươi với những mùa quả ngọt trĩu cành.

3THÀNH LẬP TRUNG ĐOÀN 22 QUYẾT TÂM

P1-14
Bộ đội hành quân vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Ảnh tư liệu.

          Trong cao trào thi đua chống Mỹ, cứu nước của quân dân ta, thực hiện Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 11 (khóa III): Quyết tâm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tháng 3-1965, lễ thành lập Trung đoàn 1 thuộc Quân khu Hữu Ngạn, tiền thân của Trung đoàn 22 được tổ chức tại xóm Rổng Tằm, xã Lâm Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn hầu hết đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, phục viên về địa phương hoặc chuyển ngành được huy động tái ngũ. Các đơn vị trong Trung đoàn được huấn luyện tại Đoàn 32 thuộc Quân khu Hữu Ngạn gồm có 3 tiểu đoàn bộ binh 1, 2, 3 và các đại đội trực thuộc.

          Sau một thời gian học tập, rèn luyện và huấn luyện đặc biệt tại Đoàn 32 ở huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, ngày 15-6-1965, Trung đoàn nhận lệnh lên đường vào miền Nam chiến đấu. Gần 3 tháng hành quân vượt Trường Sơn hùng vĩ với khí thế hào hùng và lạc quan, đơn vị đã vào đến chiến trường an toàn.

P1-15
Các chiến sĩ trên đường hành quân. Ảnh tư liệu.

          Khi hành quân vào đến Ngã ba Đông Dương (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum ngày nay) Tiểu đoàn 2 tách khỏi đội hình, đi tiếp vào miền Đông Nam bộ. Lực lượng còn lại (Trung đoàn thiếu), hành quân vào nơi tập kết. Trung đoàn đứng chân ở vùng rừng núi giáp 3 huyện: An Lão (tỉnh Bình Định), Ba Tơ và Đức Phổ (tỉnh Quảng Ngãi). Tại đây, Trung đoàn được bổ sung Tiểu đoàn Phủ Thông, tức Tiểu đoàn 8 thuộc Trung đoàn 1 chủ lực của Quân khu 5. Tiểu đoàn này đã giành chiến thắng vang dội ở Kỳ Sanh, Việt An và Ba Gia, Vạn Tường, Quảng Ngãi (năm1965). Vậy là từ Trung đoàn 1, Quân khu Hữu Ngạn, nay trở thành Trung đoàn 22, Sư đoàn 3 – Sao Vàng, Quân khu 5.

          Cán bộ của Trung đoàn 22 hầu hết đã từng trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Có thể nói Trung đoàn 22 là biểu tượng của sự kết tinh truyền thống quý báu của Quân đội Nhân dân giữa hai lớp người trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến, hai miền Nam – Bắc của Tổ quốc.

          Từ ngày 2-9-1965, Trung đoàn 22 nằm trong biên chế của Sư đoàn 3 – Sao Vàng với 3 tiểu đoàn được mang tên như sau: Tiểu đoàn 1 đổi tên là Tiểu đoàn 7, Tiểu đoàn 8 giữ nguyên, Tiểu đoàn 3 đổi tên là Tiểu đoàn 9. Tiểu đoàn 8 là đơn vị chính quy từ miền Bắc vào chiến trường sớm đã lập nhiều chiến công nên được Trung đoàn xác định là Tiểu đoàn chủ công.

          Ban chỉ huy Trung đoàn qua các thời kỳ

  1. Từ năm 1965 đến cuối năm 1967:

– Đồng chí Nguyễn Sơn Diệp, Trung đoàn trưởng.
– Đồng chí Hồ Sĩ Lộc, Chính ủy Trung đoàn.
– Đồng chí Nguyễn Đình Kháng, Phó Trung đoàn trưởng.
– Đồng chí Nguyễn Duy Thương, Tham mưu trưởng.
– Đồng chí Đỗ Hồng Sơn, Chủ nhiệm Chính trị.
– Đồng chí Nguyễn Hữu Xuân, Chủ nhiệm Hậu cần.

  1. Từ cuối năm 1967 đến cuối năm 1968

– Đồng chí Nguyễn Trưng, Trung đoàn trưởng.
– Đồng chí Hồ Đắc Liễn, Chính ủy Trung đoàn.
– Đồng chí Nguyễn Văn Luyện, Phó Trung đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng.
– Đồng chí Lê Đắc Sao, Phó Chính ủy.
– Nguyễn Khắc Phối, Chủ nhiệm Hậu cần.

  1. Từ cuối năm 1968 đến giữa năm 1969

– Đồng chí Nguyễn Văn Thị, Trung đoàn trưởng.
– Đồng chí Hồ Đắc Hưng, Chính ủy Trung đoàn.
– Đồng chí Nguyễn Văn Luyện, Phó Trung đoàn trưởng.
– Đồng chí Lê Nam Tước, Tham mưu trưởng.
– Nguyễn Sừ, Chủ nhiệm Hậu cần.

  1. Từ giữa năm 1969 đến tháng 2 năm 1970

– Đồng chí Lê Chí Thuận, Trung đoàn trưởng.
– Đồng chí Hồ Đắc Hưng, Chính ủy Trung đoàn.
– Đồng chí Tạ Đình Cơ, Phó Trung đoàn trưởng.
– Đồng chí Lê Nam Tước, Tham mưu trưởng.
– Đồng chí Lê Lung, Chủ nhiệm chính trị.
– Nguyễn Sừ, Chủ nhiệm Hậu cần.

          Các Tiểu đoàn:

          1- Tiểu đoàn 7: Tiểu đoàn 1 (thuộc Trung đoàn 1, Quân khu Hữu Ngạn) là tiền thân của Tiểu đoàn 7 được thành lập ngày 27-3-1965 tại xóm Đễnh, xã Dân Hòa, huyện Kỳ Sơn, (giáp xã Lâm Sơn, huyện Lương Sơn), tỉnh Hòa Bình. Tiểu đoàn gồm 572 cán bộ, chiến sỹ, trong đó có 152 đảng viên, 290 đoàn viên. Tiểu đoàn trưởng là đồng chí Nguyễn Văn Luyện, Chính trị viên trưởng Tiểu đoàn là đồng chí Lê Hồng Diện, Chính trị viên phó là đồng chí Trần Chinh.

          Tiểu đoàn gồm những cán bộ, chiến sỹ từ các Sư đoàn, Lữ đoàn 305, 308, 312, 320 và các binh chủng hải, lục, không quân, thông tin, hóa học… tập trung về. Hầu hết cán bộ từ tiểu đội trưởng trở lên đều được huấn luyện ở các trường chính quy trong Quân đội. Trình độ hiểu biết về kỹ chiến thuật của toàn đơn vị cũng khác nhau. Hơn một nửa tiểu đoàn là bộ đội tại ngũ. Tình hình đơn vị lúc bấy giờ trong học tập và rèn luyện rất sôi nổi. Từng đại đội, trung đội, tiểu đội đều có kế hoạch mang vác ngày càng tăng dần; lúc mới đầu chỉ mang 5-6 viên gạch, dần dần đến 12-13 viên. Ai cũng sợ mình không đủ sức khỏe hành quân vượt Trường Sơn vào chiến trường miền Nam đánh Mỹ. Đến ngày hành quân, đơn vị rút đi một số cán bộ chiến sỹ cũ và bổ sung thêm 1/3 quân số tại ngũ và tân binh.

          Về biên chế, Tiểu đoàn 7 gồm 3 Đại đội bộ binh 71, 72, 73, và đại đội hỏa lực mang vác là Đại đội 74; và các cơ quan Tiểu đoàn bộ cùng các trung đội, tiểu đội trực thuộc Tiểu đoàn.

          2- Tiểu đoàn 8: Tiểu đoàn 8 nguyên là Tiểu đoàn 151 thuộc Liên khu 3, thành lập ngày 14-4-1947 tại xã An Khánh, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên; tháng 7 năm 1948 được đổi thành Tiểu đoàn 11 mang tên “Tiểu đoàn Phủ Thông”. Tháng 12-1950, Tiểu đoàn Phủ Thông cùng với Tiểu đoàn 468 và Tiểu đoàn 16 thành lập Trung đoàn 131 thuộc Đại đoàn 312. Tháng 6-1955 đổi thành Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 141.

          Tháng 2-1964, Tiểu đoàn Phủ Thông do đồng chí Phạm Xuân Hội là Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Ngô Văn Viên, Chính trị viên, đồng chí Phùng Xuân Phong là Tham mưu trưởng, được điều vào chiến trường Khu 5. Cuối năm 1964, Tiểu đoàn vào đến Kanắc (tỉnh Gia Lai). Đầu năm 1965, Tiểu đoàn di chuyển ra tỉnh Quảng Ngãi, chiến đấu trong đội hình Trung đoàn 1, Quân khu 5, tham gia đánh nhiều trận lớn nhỏ. Điển hình là trận Ba Gia (31-5-1965) và trận Vạn Tường (18-8-1965). Tháng 9-1965 biên chế trong đội hình Trung đoàn 22, Sư đoàn 3 – Sao Vàng.

          Về biên chế, Tiểu đoàn 8 gồm 3 Đại đội bộ binh 81, 82, 83, Đại đội hỏa lực 84; và các cơ quan Tiểu đoàn bộ cùng các trung đội, tiểu đội trực thuộc Tiểu đoàn.

          3- Tiểu đoàn 9: Tiểu đoàn 9 nguyên là Tiểu đoàn 3 (thuộc Trung đoàn 1, Quân khu Hữu Ngạn), thành lập tháng 3-1965 tại xóm Kẽm, xã Lâm Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Tiểu đoàn gồm những cán bộ, chiến sỹ được lựa chọn từ các đơn vị trong Quân khu Hữu Ngạn. Cán bộ chỉ huy tiểu đoàn, đại đội, trung đội hầu hết là những đồng chí đã được đào tạo trong các trường sĩ quan Quân đội. Phần lớn các đồng chí đã trải qua kháng chiến chống thực dân Pháp nên dày dạn kinh nghiệm trong chiến đấu, tư tưởng vững vàng, kiên trung. Tiểu đoàn trưởng là đồng chí Đàm Tiến Thành, Chính trị viên trưởng là đồng chí Nguyễn Liêm. Sau thời gian học tập và huấn luyện, đơn vị được biên chế đầy đủ quân số và trang bị vũ khí, khí tài như súng tiểu liên AK47, B40, RPD, ĐKZ-57, 75, cối 61, 82… và lên đường vào miền Nam chiến đấu.

          Về biên chế, Tiểu đoàn 9 gồm các Đại đội 91, 92, 93, 94; và các cơ quan Tiểu đoàn bộ cùng các trung đội, tiểu đội trực thuộc Tiểu đoàn.

          Các đơn vị trực thuộc Trung đoàn

          Bên cạnh 3 tiểu đoàn bộ binh, Trung đoàn còn có các đơn vị trực thuộc: Tiểu đoàn hỏa lực mang vác, các Đại đội Trinh sát, Thông tin, Công binh, Quân y, Vận tải; sau này có thêm đại đội đặc công…

          Mật danh, phiên hiệu, mã hiệu đơn vị ở chiến trường:

Sư đoàn 3 (F3): Sư đoàn Sao Vàng, Nông trường 3.
Trung đoàn 22 (E22): Trung đoàn Quyết Tâm, Công trường 22, Liên gia 6, Phố Nam.
Trung đoàn bộ: Ban Tham mưu – Nhà số 7, Ban Chính trị – Nhà số 8, Ban Hậu cần – Nhà số 9.
Tiểu đoàn 7 (D7): Khu 7, Liên đội 7, Xóm 7.
Tiểu đoàn 8 (D8): Khu 8, Liên đội 8, Xóm 8.
Tiểu đoàn 9 (D9): Khu 9, Liên đội 9, Xóm 9.
Các đơn vị trực thuộc Trung đoàn: Quận 42, Quận 43, Quận 44, Quận 45…

          Số hiệu hòm thư

Trung đoàn bộ và các đơn vị trực thuộc: Từ 21200 – 21214 GM Phi trường 10.
Tiểu đoàn 7: Từ 21215 – 21219 GM Phi trường 10.
Tiểu đoàn 8: Từ 21220 – 21224 GM Phi trường 10.
Tiểu đoàn 9: Từ 21225 – 21229 GM Phi trường 10.
Số hiệu hòm thư của Trung đoàn có thời kỳ là 7254 – 7256…, 7268 – 7274… Trà Khúc.

 4TRUNG ĐOÀN 22 THAM GIA CHIẾN DỊCH MÙA ĐÔNG 1965 Ở CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG NGÃI

P1-16
Các chiến sĩ tấn công địch. Ảnh tư liệu.

          Quảng Ngãi là một trong những tỉnh đông dân, trù phú của miền Trung Trung bộ. Nói đến Quảng Ngãi, người ta thường nghĩ ngay đến những đặc sản đường phèn, đường phổi, mạch nha và quế Trà Bồng… Người dân Quảng Ngãi giàu truyền thống cách mạng, có nhiều cuộc khởi nghĩa nổi tiếng như Ba Tơ (ngày 11-3-1945), khởi nghĩa Trà Bồng (ngày 28-8-1959) và những cuộc đấu tranh chính trị, binh vận giành thắng lợi.

          Bước vào chiến dịch Đông 1965, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 giao cho Sư đoàn 3 – Sao Vàng nhiệm vụ phối hợp với các lực lượng địa phương tỉnh Quảng Ngãi đảm nhiệm một trong 5 hướng tiến công của Quân khu. Đồng thời hỗ trợ phong trào địa phương nổi dậy đấu tranh với chính quyền ngụy, đòi quân Mỹ rút về nước…

          Nằm trong đội hình Sư đoàn, Trung đoàn 22 đảm nhiệm một hướng tấn công cùng với Trung đoàn 2 giải phóng quận lỵ Mộ Đức, Đức Phổ, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá ách kìm kẹp của địch.

P1-17
Các chiến sĩ truy kích địch. Ảnh tư liệu.

          Dạo ấy là mùa mưa. Mưa kéo dài hết ngày này tháng khác. Mưa lở núi, sụt đường. Nước sông Trà Khúc, sông Vệ dâng lên cuồn cuộn. Những cánh đồng lớn, nhỏ quanh khu vực Núi Thụ, quận lỵ, nước ngập trắng xóa. Từ Bình Định, các chiến sĩ Trung đoàn 22 cấp tốc hành quân ra Quảng Ngãi để kịp hợp đồng tác chiến với các đơn vị trong Sư đoàn. Đêm chiếm lĩnh trận địa mới thật vất vả. Mưa tầm tã, quần áo, súng đạn ướt sũng, các chiến sĩ rét run cầm cập, vừa căng thẳng lại vừa hồi hộp, nhất là những người chưa từng vào trận, chưa từng nổ súng… Rồi giờ nổ súng cũng đến. 12 giờ đêm, các hướng của ta đồng loạt tấn công. Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 22 được phân công tiêu diệt cứ điểm Núi Thụ và một đại đội bảo an trong ấp Mây gần đó. Các Tiểu đoàn khác phối hợp chia cắt, tiêu diệt địch, ngăn chặn chúng chi viện. Cũng do mưa to, nước ngập, các đơn vị đi chệch hướng, không kịp giờ nổ súng nên Trung đoàn 22 và các đơn vị trong Sư đoàn đã không đạt được mục đích là tiêu diệt gọn Núi Thụ, đồn số 7 và ấp Mỹ Trang. Những ngày sau đó, quân địch ở trong thị xã Quảng Ngãi và các căn cứ xung quanh cùng với quân cơ động, máy bay, đại bác kéo đến chi viện cho Mộ Đức. Đội hình của Trung đoàn 22 và các đơn vị trong Sư đoàn gặp nhiều khó khăn.

          Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Sư đoàn Sao Vàng nhận định: Nếu tiếp tục tiến công, ta vẫn có thể dứt điểm các mục tiêu ấp Mỹ Trang, căn cứ Núi Thụ, nhưng bộ đội sẽ chịu nhiều tổn thất. Vì lúc này lính thủy đánh bộ Mỹ từ Chu Lai đã nhảy vào, quân cơ động ngụy đã tăng cường trực tiếp vào khu chiến. Sau đó lãnh đạo và chỉ huy Sư đoàn quyết định chuyển hướng chiến dịch sang quận Minh Long, phía Tây tỉnh Quảng Ngãi.

          Với cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 22, Trận đánh Núi Thụ, Mộ Đức là một kỷ niệm đáng buồn vì đây là lần đầu tiên tham gia chiến dịch lớn mà lại không thành công trọn vẹn. Cũng từ “bài học” này, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 22 đã biết vượt mọi khó khăn, thử thách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong những năm sau đó.

 5TRUNG ĐOÀN 22 THAM GIA GIẢI PHÓNG QUẬN MINH LONG, TỈNH QUẢNG NGÃI

P1-18
Các chiến sĩ Trung đoàn 22 chiếm lĩnh lô cốt trung tâm Minh Long. Ảnh tư liệu.

          Nằm trong kế hoạch tác chiến của Sư đoàn, cuối tháng 12-1965, các đơn vị làm công tác tổ chức chiến đấu để giải phóng quận Minh Long, quận miền núi phía Tây tỉnh Quảng Ngãi.

          Quận lỵ Minh Long có thành cao, sông sâu bao bọc, có hệ thống “ấp chiến lược” và các cứ điểm bảo vệ dày đặc. Gọi là quận lỵ nhưng từ lâu nó đã biến thành một cụm cứ điểm bố trí theo kiểu một “mẹ”, hai, ba “con” (mẹ cỡ từ một đại đội, con từ một đến hai trung đội). Nằm lọt giữa lòng chảo một thung lũng rộng khoảng 24 kilômét vuông, quận có đồn Gò Quang cao 175 mét và Gò Găng cao 26 mét, án ngữ ở Đông Bắc và Tây Nam như hai vọng gác rất lợi hại. Bọn bảo an đóng giữ ở đây là lính người dân tộc Nùng, dân tộc H’re bị nhồi sọ trở nên hung ác, man rợ. Chúng bắn giết khủng bố nhân dân bất kể Kinh, Thượng. Chỉ cần một cái cớ rất nhỏ cũng có thể bị chúng mổ bụng, moi gan uống rượu. “Các người nên nhớ rằng 11 năm nay vùng đất này là của chúng tao, cái sông, cái suối cũng của chúng tao…”. Mỗi lần sục càn vào dân, bọn lính đứa nào cũng nhai đi nhai lại câu nói của tên Thiếu tá Quận trưởng Vi Phương – một tên phản động khét tiếng hung bạo.

          Cơ sở ta bị chà đi, xát lại, tổn thất bao lần, nên mặc dù đã được tăng cường cán bộ từ Sơn Hà, Ba Tơ, Nghĩa Hành tới và vùng giải phóng bao bọc bốn phía, phong trào ở Minh Long vẫn không nhích lên được. Địch vẫn duy trì quận lỵ như một bán đảo làm điểm xuất phát hành quân, càn quét đánh phá vùng giải phóng của ta.

          Sau một tuần lễ nghiên cứu thực địa, Sư đoàn trưởng Giáp Văn Cương quyết định chọn quận lỵ làm mục tiêu chính. Phương án cơ bản dứt điểm quận lỵ ngay từ trận đầu. Đánh đêm không xong, đánh tiếp ban ngày. Các mục tiêu khác sẽ bao vây, diệt gọn từng điểm và sẵn sàng diệt quân cứu viện. Trung đoàn 22 và Trung đoàn 12 đảm nhiệm mục tiêu quận lỵ, Trung đoàn 2 làm lực lượng đánh viện. Ban chỉ huy Trung đoàn 22 giao cho Tiểu đoàn 7 đánh thọc sâu vào quận lỵ, cùng với một tiểu đoàn của Trung đoàn 12 diệt gọn quận lỵ. Các tiểu đoàn khác trong Trung đoàn phối hợp giải phóng các đồn, ấp xung quanh.

          Tiểu đoàn 7 dùng Đại đội 71, 72 đánh quận. Đại đội 73 đánh áp sát quận. Khoảng 6 giờ chiều ngày 29-12-1965, Tiểu đoàn hành quân trên nhiều hướng chiếm lĩnh trận địa, trời lại mưa! Mưa như trút nước. Anh em chiến sĩ không hề bị ám ảnh bởi cái đêm mưa khủng khiếp khi chiếm lĩnh Núi Thụ, mà còn tin tưởng rằng mưa to sẽ tăng thêm yếu tố bí mật, bất ngờ. Đường đi phải qua những vạt rừng, sườn đồi, đồng ruộng và lội trong lòng con suối lớn giữa quận và ấp chiến lược. Nước suối chảy ào ào, cuốn theo rác rưởi, phân người, phân gia súc trong quận và các ấp tuôn ra. Nhiều chiến sĩ còn rất sợ những đàn đỉa trâu đen xì lúc nhúc đeo bám. Chúng cắn vào tay, vào cổ, cả trên mặt và chui vào trong lưng. Chưa nổ súng mà anh em đã đổ máu vì đỉa. Lội sát vào quận, lòng suối sâu hơn, nước dâng cao ngang ngực. Thung lũng Minh Long chìm trong mưa, bóng đêm dày đặc, đâu đó lóe lên ánh đèn pin, những loạt đạn bắn vu vơ của bọn lính gác.

P1-19
Đồng bào dân tộc vùng núi tỉnh Quảng Ngãi gùi sắn và rau rừng tiếp tế cho Trung đoàn 22. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          0 giờ 45 phút ngày 29-12-1965, thung lũng Minh Long đang chìm sâu trong giấc ngủ, chợt vang lên một loạt đạn garăng ở phía Nam quận lỵ. Mấy chiếc pháo sáng từ các ấp xung quanh bắn vọt lên đung đưa trong sương đặc. Cạnh sân bay dã chiến, một quả mìn sáng nổ. Những tia lửa xanh lóe lên như lửa hàn. Một phút sau tất cả lại chìm trong im lặng. Lúc đó ở Sở chỉ huy, Trưởng ban Tác chiến báo cáo với Sư đoàn trưởng là bộ phận hỏa lực của Tiểu đoàn 7 vào chiếm lĩnh bị vướng mìn. Một khẩu đội cối bị thương gần hết. Trung đoàn 22 có thể chiếm lĩnh chậm.

          Nghe báo cáo, Sư đoàn trưởng bình tĩnh nói: “Nhắc trinh sát theo dõi địch thật chặt, chưa lộ đâu!”. Nhìn các mũi tên đỏ, biểu thị hướng đánh của từng Trung đoàn trên bản đồ, Sư đoàn trưởng thấy Trung đoàn 22 phải vượt qua nhiều quãng đồng trống và luồn lách giữa hệ thống “ấp chiến lược” dày đặc. Đó là hướng sơ hở nhất của địch và là hướng có thể thọc vào quận lỵ gần nhất, nhưng cũng khó khăn nhất. Vì thế, trong phương án, Sư đoàn ưu tiên Trung đoàn 22 nổ súng trước. Nếu hướng của Trung đoàn 22 bị lộ, Trung đoàn 12 phải kịp thời nổ súng kéo địch về phía Bắc và phía Tây, tạo điều kiện cho Trung đoàn 22 đột phá dưới sự chi viện của hỏa lực Sư đoàn.

          01 giờ 18 phút, Trưởng ban Tác chiến lại báo cáo, Tiểu đoàn 4 vấp quả mìn sáng thứ hai. “Lộ rồi!” – Sư đoàn trưởng nói. Lập tức anh ra lệnh cho Trung đoàn 12 nổ súng, mặc dù lúc đó Trung đoàn 22 còn cách hàng rào thứ nhất 300 mét.

          Bầu trời thung lũng Minh Long đang chìm trong mưa, tối đen mù mịt bỗng bừng sáng bởi pháo sáng, quầng sáng của các loại đạn cối 120 ly, cối 82, ĐKZ-75 và bộc phá mở hàng rào, làm rung chuyển, âm vang một vùng rừng núi. Tiểu đoàn 7 từ dưới suối nhảy lên bờ chạy trên cánh đồng. Đại đội 71, 72 triển khai đội hình trước hàng rào và dùng bộc phá phá rào kẽm gai trong lúc hỏa lực trong lô cốt, trong hầm hào bắn ra mãnh liệt. Đại đội 73 vận động đến gần ấp phải dừng lại trước hỏa lực của địch bắn ngăn chặn. Bộ đội lợi dụng ụ đất, bờ ruộng triển khai hỏa lực. Đại liên, trung liên, B40 bắn kiềm chế địch cho bộ phận bộc phá phá rào. Toàn đơn vị xung phong vượt, đạp rào đánh chiếm ấp. Địch bị diệt một số, số còn lại lui vào giữa ấp, co cụm trong các giao thông hào và trong hầm chống trả quyết liệt. Đại đội tổ chức từng tiểu đội, trung đội bao vây tiêu diệt từng tốp địch. Địch trong công sự bắn và ném lựu đạn ra xung quanh. Ta dùng B40, lựu đạn diệt địch trong hầm, trong giao thông hào. Tiểu đội của Trần Quý Đôn phát triển đến đoạn hào cuối ấp thì dừng lại triển khai phòng ngự. Một lát sau tổ trưởng tổ 3 lại báo cáo phát hiện có địch trong hầm cạnh giao thông hào. Tiểu đội trưởng Đôn quan sát thấy một ụ đất lớn cạnh hào, phía trong hàng rào, cao khoảng 70 phân và tiến lại gần, nghe trong hầm vọng ra tiếng người dân tộc. Đôn điều thêm tổ 2 cùng tổ 3 bao vây hầm. Cử một chiến sĩ bò lên nắp hầm dùng chân giậm mạnh rồi lui ra. Đôn liền hô:

          – Đầu hàng thì sống, nếu ngoan cố, dùng bộc phá tiêu diệt.

          Một phút im lặng, anh em chuẩn bị lựu đạn ném vào hầm thì từ trong hầm vọng ra nhiều tiếng kinh lơ lớ:

          – Xin hàng, xin hàng!

          Lần lượt bảy tên lính bảo an người dân tộc H’re cầm súng garăng dựng vào thành hào, hai tay giơ lên trời. Anh em trói từng tên rồi dẫn chúng về giao cho đại đội kèm theo 7 khẩu súng. Khoảng 5 giờ sáng, Đại đội 73 làm chủ ấp chiến lược.

          Trận đánh quận lỵ diễn ra ác liệt ngay từ đầu. Tranh thủ kết quả của hỏa lực, mũi chủ yếu của Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 12 phá tiếp được hai lớp rào nữa, nhưng đến lớp rào cuối cùng, tiểu đội bộc phá gặp lưới lửa hỏa lực của địch phải ùn lại. Đội hình Đại đội 41 bị ghìm trước cửa mở.

          Đại đội trưởng Kiên đưa ĐKZ-57, B40 lên tiêu diệt các hỏa điểm. Một lát sau, trong tiếng nổ dữ dội của đạn ĐKZ-57 và B40, các chiến sĩ lao lên phá nốt hàng rào cuối cùng. Địch tập trung hỏa lực bắn rát. Toàn bộ tổ bộc phá hy sinh. Đội hình Đại đội 41 vẫn bị ghìm lại trước cửa mở, chưa phát triển được.

          Ở mũi thứ hai của Tiểu đoàn 4, tình hình còn khó khăn hơn. Bộ đội phải đánh từ hàng rào thứ hai, vượt qua một bãi mìn mới tới hàng rào thứ ba. Trung đội trưởng Bình, một mình dùng cả tiểu liên AK, trung liên, B40 kiềm chế địch cho các chiến sĩ vượt hào lên phá rào, nhưng cả Bình và các chiến sĩ đều hy sinh.

P1-20
Lính ngụy đi càn, đốt nhà dân. Ảnh tư liệu.

          Bộc phá hết, đội bộc phá chỉ còn lại một chiến sĩ. Anh quay trở ra tìm bộc phá thì gặp Đại đội trưởng Khiết đưa “đột kích 1” tới. Có bộc phá, anh chiến sĩ liền lao lên, Khiết nằm lại bắn chi viện. Một lát sau, bộc phá nổ, Khiết và “đột kích 1” cùng lao tới.

          “Chú ý chúng nó thả lựu đạn!”, tiếng một người nào đó thét to. Khiết nhìn xuống, thấy anh chiến sĩ đánh bộc phá gãy nát một chân nằm ép vào cọc sắt hàng rào bùng nhùng. Thì ra khi đặt bộc phá sát bờ thành, anh bị địch phát hiện, chúng đáp lựu đạn xuống, anh vẫn cắn răng giật nụ xòe rồi bò ra, được một đoạn, bộc phá nổ hất anh tới sát hàng rào thứ tư.

P1-21
Thuyền của đồng bào tỉnh Quảng Ngãi dùng để chở các chiến sĩ Trung đoàn 22 vượt sông đánh địch. Trưng bày tại phòng truyền thống Sư đoàn 3.

          Trung đội trưởng Trung đội 1 theo lệnh Khiết lên đánh chiếm lô cốt đầu cầu, vượt tường thành vào bên trong, nhưng lại bị bật ra ngay vì luồng đạn đại liên bắn từ lô cốt trung tâm. Địch ở các hầm tràn ra chiếm lại đầu cầu, chúng bắn như đổ đạn xuống đường mở.

          3 giờ sáng, tình hình vẫn hết sức căng thẳng. Tất cả các mục tiêu của Sư đoàn đều đã nổ súng, nhưng chưa chỗ nào làm chủ được trận địa. Trung đoàn 22 chưa liên lạc được với Tiểu đoàn 9 ở Gò Găng. Tiểu đoàn 4 chưa liên lạc được với Đại đội 53. Ở mục tiêu chính, địch đánh bật các mũi tiến công của ta ra hào phản xung phong. Các lô cốt bị bắn sập, có cái tưởng như đã tê liệt, nhưng khi bộ đội vượt qua, địch lại trỗi lên nổ súng. Phán đoán địch có lô cốt ngầm hoặc hầm ngầm, Sư đoàn trưởng ra lệnh cho các đơn vị phát huy hỏa lực đi cùng, đánh chắc, bám chắc, đánh tới đâu, tảo trừ tới đó.

          Vừa lúc Trung đoàn 12 báo cáo Tiểu đoàn 4 đã bắt liên lạc được với Đại đội 53, cho biết Đại đội 53 đã chiếm được lô cốt đầu cầu, bắt được tù binh, nó khai có hầm ngầm, nhưng khi đánh xuống lại không thấy địch đâu cả. Như vậy là chúng có nhiều đường ngầm chứ không chỉ có hầm ngầm. Sư đoàn trưởng cho phép Trung đoàn 12 tung dự bị vào.

          Trung đoàn trưởng Trần Soạn xuống Tiểu đoàn 4, qua kiểm tra, anh điều thêm một trung đội của Đại đội 43 tiếp sức cho Đại đội 41.

          5 giờ 45 phút, đợt tiến công thứ hai vào quận lỵ Minh Long bắt đầu. Hai khẩu ĐKZ-75 theo mũi chủ yếu của Trung đoàn 12, cùng với cối, ĐKZ-75 của Trung đoàn, Sư đoàn bắn liên tiếp vào khu trung tâm. Trong đêm, đạn vạch lên từng làn sáng rực, phá vỡ từng lô cốt, dập tắt từng hỏa điểm địch.

          “Lô cốt số hai tắt rồi. Đại đội 41 theo tôi!”. Đại đội trưởng Ngọc Kiên hô lớn. Anh dẫn đầu đơn vị vượt qua hào phản xung phong. Đại đội phó Cận đứng làm thang cho chiến sĩ nhảy qua vai mình. Tới bờ thành, Cận gặp đội hình Đại đội 41 của Ngọc Kiên đang dồn lại. Biết giặc lợi dụng bờ thành bên kia làm chậm bước phát triển của Đại đội 41. Cận nhanh chóng dẫn đơn vị đánh vòng về bên phải. Bọn địch đang đối phó với mũi của Ngọc Kiên vội giãn ra đối phó với Cận. Kiên ra lệnh cho bộ đội công kênh nhau, vừa câu lựu đạn, vừa lao qua bờ thành. Chớp thời cơ, Tiểu đoàn 4 đưa thêm hai trung đội còn lại của Đại đội 43 tăng cường cho Đại đội 41. Tham mưu trưởng đưa “đột kích 2” tăng cường cho Đại đội 42.

          Trời tối, địa hình bên trong rất phức tạp. Ngoài các hầm hào, ụ súng kiên cố, còn nhà ngang, nhà dọc, mỗi gian đều biến thành ổ đề kháng. Bọn địch thông thạo địa hình luồn lủi như chuột. Ngọc Kiên ra lệnh cho bộ đội tiến thật chắc, bám thật chắc. Đánh tới đâu, tảo trừ tới đó.

          Trên hướng của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 22, bộ đội đã đánh chiếm được hào, bắt sống được lính địch, nhưng Đại đội 71 chỉ còn bảy chiến sĩ, nếu tiếp tục đánh trực diện sẽ không thu được kết quả, Đại đội trưởng liền chia bảy người thành hai tổ, bắt hai tên lính bảo an dẫn đường, bất ngờ đánh thọc vào sau lưng lô cốt đầu cầu. Đội hình địch lập tức rối loạn. Chúng lúng túng quay lại đối phó. Từ bên ngoài, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Luyện cũng kịp thời tung Đại đội 72 vào tiếp sức cho Đại đội 71. Địch chết ngổn ngang trong các đường hào. Số sống sót xô nhau chạy về khu trung tâm.

          Cũng trong thời gian ấy, ở phía Bắc, Tiểu đoàn 4 đưa thêm hai khẩu ĐKZ-57 vào trong thành. Đại đội trưởng Bính, Chính trị viên Cừ dẫn đầu hai bộ phận của Đại đội 53 đánh từ phía Tây tới. Tất cả các mũi đều dồn về phía lô cốt hai tầng ở khu trung tâm.

          Một tốp sĩ quan ác ôn theo đường ngầm định tẩu thoát ra phía cổng chính, nhưng khi chúng ló đầu lên thì ba mũi súng của các chiến sĩ Tiểu đoàn 7 đã chĩa vào:

          – Hết đường rồi. Thằng Vi Phương đâu? Quận trưởng của chúng mày đâu? Một chiến sĩ quát.

          – Dạ, ổng còn tử thủ ở lô cốt trung tâm. Dạ, các anh tha chết, em xin dẫn đường.

          Bộ đội đổ dồn về phía lô cốt trung tâm. Từ những lỗ châu mai đã vỡ nát, những loạt đại liên vẫn bắn ra quyết liệt và lựu đạn vẫn ném xuống liên tiếp. Các mũi đều dừng lại. Không nén nổi căm thù, Khiết ôm quả bộc phá khối nhảy qua hào, dùng chân đá bay hai qủa lựu đạn địch vừa thả xuống, tiến sát tới lô cốt. Bộc phá nổ nhưng chỉ phá được một mảng nhỏ, Khiết chạy lộn trở ra. Một mảnh đạn xiết qua má. Anh nhổ ra một ngụm máu rồi xông vào lần nữa. Lần này, anh chập hai quả bộc phá lại. Một tiếng nổ dậy đất. Chiếc lô cốt hai tầng đổ sụp xuống. Lúc ấy là 5 giờ 30 phút sáng.

P1-22
Đồng bào trở về làng cũ sau giải phóng Minh Long. Ảnh tư liệu.

          Ở các vị trí vây bức Gò Quang, Gò Găng và đồn cộng hoà, bọn giặc nằm câm lặng, không dám nổ súng. Chúng cuống quýt xin tăng viện, nhưng tên trưởng tiểu khu Quảng Ngãi đã ra lệnh cho chúng rút chạy. Số này bị các tổ đón lõng và du kích tóm gần hết.

          Chiến thắng Minh Long đã kết thúc chiến dịch mùa Đông 1965 của Sư đoàn Sao Vàng. Thắng lợi này đã đẩy phong trào cách mạng của nhân dân hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định lên một bước mới, củng cố lòng tin đánh thắng “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, nâng cao quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

          Trong thời gian chiến đấu ở Minh Long, vùng đất này đã trở nên gắn bó, thân thiết biết bao với các chiến sĩ Trung đoàn 22. Người dân miền Tây Quảng Ngãi nói ít, cười nhiều. Những ngày bộ đội chiến đấu là những ngày đồng bào đi cõng gạo, gùi đạn cho bộ đội. Có nơi cả làng, cả bản cùng đi. Gạo nộp không tính cân mà tính gùi. Người lớn có gùi lớn, người nhỏ có gùi nhỏ. Bà con nộp xong về ngay, không cần giấy biên nhận, không cần lấy muối thưởng…

          Lòng dân ở vùng núi cũng như miền xuôi, từ chiến dịch đầu tiên ấy đã tạo thêm niềm tin, thành điểm tựa vững chắc cho các chiến sĩ Trung đoàn 22.

          Đầu năm 1966, Trung đoàn đoàn được lệnh rời vùng rừng núi miền Tây Quảng Ngãi trở về Bình Định, chuẩn bị chiến dịch mới. Dọc hai bên đường, đồng bào H’re, đồng bào Co đứng chật ở các đầu bản lưu luyến tiễn đưa các chiến sĩ Trung đoàn.

          Các chiến sĩ Trung đoàn 22 lại trở về đứng chân ở huyện Hoài Nhơn, nơi nhân dân đã chăm sóc mình trong những ngày đầu tiên vào chiến trường… và cùng bà con chuẩn bị đón xuân nghe Bác Hồ chúc Tết.

 6TRẬN ĐẦU ĐÁNH MỸ CHIẾN CÔNG VANG DỘI

P1-23
Cán bộ, chiến sĩ thảo luận phương án tác chiến trên sa bàn. Ảnh tư liệu.

          Không khí ngày Tết thật ấm áp. Đây là lần đầu tiên anh em bộ đội miền Bắc ăn tết với bà con miền Nam. Phong tục có chỗ hơi khác lạ, nhưng điểm chung nhất là “tình nghĩa Bắc – Nam” thì ở miền nào cũng vậy, đằm thắm, chan hòa… Bộ đội và bà con các xã Hoài Châu, Hoài Hảo, Tam Quan, Hoài Thanh, Hoài Sơn… đang vui vẻ đón xuân cùng bộ đội miền Bắc thì Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 (1st Air Cavalry Division) Mỹ đã ập đến.

          Nằm trong đội hình Sư đoàn, nhưng Trung đoàn 22 đã được bố trí ở hướng chủ yếu đánh quân Mỹ đổ bộ đường không. Ngày 28-01-1966 (mồng 8 Tết âm lịch), vào lúc 8 giờ sáng, những loạt bom B52 nổ rền rĩ trên đãy núi Hưng Nhượng giáp giới hai huyện Hoài Nhơn và An Lão. Đó là những loạt bom mở đầu cho cuộc hành quân “Cái Chày” của Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 Mỹ. Dứt bom, bầu trời chưa kịp yên tĩnh thì hàng chục trận địa pháo đã dội đạn dồn dập xuống các làng mạc thuộc các xã Hoài Hảo, Hoài Châu, Hoài Sơn, Tam Quan… Sau đó, hàng trăm chiếc trực thăng kết thành từng bầy liên tiếp phóng rốc-két và đổ quân xuống ba khu vực Chợ Cát (Hoài Hảo), Trường Xuân, An Thái (Tam Quan Nam) và khu vực ga Chương Hòa, Bình Đê thuộc xã Hoài Châu.

P1-24
Các chiến sĩ Trung đoàn 22 trong chiến hào đánh Mỹ. Ảnh tư liệu.

          Mũi tên lớn nhất của cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất đánh vào Bắc Bình Định đã được khai diễn.

          Toàn Sư đoàn Sao Vàng được lệnh chiến đấu.

          Lúc đó, ở Hoài Nhơn, Trung đoàn 22 bắt đầu nổ súng. Đội hình Trung đoàn đứng thành thế chân kiềng. Tiểu đoàn 9 ở Hoài Hảo, Tiểu đoàn 8 ở Tam Quan Nam, Tiểu đoàn 7 ở Hoài Châu. Sở chỉ huy Trung đoàn ở giữa Tiểu đoàn 7 và 9.

P1-25
Máy bay trực thăng của Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 Mỹ bị các chiến sĩ Sư đoàn 3 bắn hạn ngày 13-10-1965 tại Hội Sơn, huyện Phù Cát. Ảnh tư liệu.

          Các chiến sĩ Tiểu đoàn 9 ở khu vực Chợ Cát là những người nổ súng đánh Mỹ sớm nhất và cũng là khu vực địch tập trung đánh phá dữ dội nhất. Thoạt đầu chiến sĩ ta rất ngạc nhiên khi thấy bọn Mỹ tỏ ra ngờ nghệch và máy móc. Chỉ mấy phút đầu, năm chiếc trực thăng đã bị bắn rơi tại chỗ và số lính của 18 chiếc trực thăng vừa đổ xuống đã bị các chiến sĩ Đại đội 93 tiêu diệt gần hết.

          Nhưng đó mới chỉ là khúc dạo đầu của những trận đánh quyết liệt và dai dẳng tiếp theo. Tiểu đoàn phó Bùi Tín vừa nhắc các chiến sĩ Đại đội 93 giữ vững đội hình, chuẩn bị đón đánh những cuộc đổ quân tiếp thì 52 chiếc trực thăng khác chở đầy lính đã ào ạt bay tới đáp xuống phía sau đội hình Đại đội.

          Trên các hướng đánh của Tiểu đoàn 8 ở An Thái, Tiểu đoàn 7 ở các thôn Gia Hựu, Chương Hòa, Hy Thế, Quy Thuận, Liễu An (Hoài Châu) và ngay cả ở Phú Lương, Tân An, Tường Sơn, nơi Trung đoàn đặt Sở chỉ huy, những trận đánh cũng bắt đầu diễn ra quyết liệt với quân Mỹ và quân ngụy.

P1-26
Một đơn vị của Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 đổ bộ xuống Bồng Sơn trong cuộc hành quân Cái Chày tháng 01-1966. Ảnh tư liệu.

          Trước tình hình ấy, Tham mưu trưởng Trung đoàn Nguyễn Duy Thương và Phó Chủ nhiệm Chính trị Hồng Sơn, thay cán bộ Chỉ huy Trung đoàn đang đi tập huấn, không khỏi lo lắng. Tuy giây phút ngỡ ngàng đối với quân Mỹ của bộ đội đã qua đi rất nhanh, anh em đều diệt được nhiều lính Mỹ, bắn rơi nhiều máy bay, nhưng kinh nghiệm chiến đấu liên tục và hiệp đồng chiến đấu của Trung đoàn còn yếu, lại phải chiến đấu với quân địch đông gấp bốn, năm lần, cơ động nhanh và rất mạnh về hỏa lực.

          Một cuộc hội ý giữa cán bộ Chỉ huy Trung đoàn với Bí thư Huyện ủy Hoài Nhơn và Chính trị viên Huyện đội được tiến hành gấp rút. Soát xét tình hình, các anh thống nhất đánh giá chỗ mạnh, chỗ yếu của quân Mỹ và xác định cách đánh cho từng đơn vị, kể cả bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang địa phương.

          Qua nửa ngày chiến đấu, thủ đoạn của bọn Mỹ đã bộc lộ khá rõ. Nếu một đơn vị Mỹ gặp lực lượng ta, lập tức chúng dùng trực thăng đổ quân bao vây, dùng hỏa lực bắn phá dữ đội rồi khép chặt dần vòng vây. Khi cần, chúng bốc quân ở những khu vực khác tăng cường đột ngột cho mục tiêu chính, khiến so sánh lực lượng nghiêng hẳn về phía chúng. Chúng hy vọng sử dụng thế mạnh về quân số, hỏa lực và sức cơ động để giải quyết chớp nhoáng trận đánh.

P1-27
Lính Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 Mỹ trong trận đánh ở Hoài Nhơn. Ảnh tư liệu.

          Trước thủ đoạn đó của địch, muốn phá thế chủ động và làm giảm hiệu quả hỏa lực của địch, các lực lượng chủ lực cũng như du kích phải luôn luôn chủ động, táo bạo, bám trụ địa hình có lợi, đánh gần, đồng thời tổ chức những trận phục kích, tập kích, đánh vào sườn, sau lưng địch, các bãi đổ bộ trực thăng… tích cực bắn rơi nhiều máy bay, tiêu diệt gọn từng Đại đội tiến tới đánh thiệt hại nặng từng tiểu đoàn Mỹ.

          Lúc đó, trên hướng đánh của Tiểu đoàn 9 ở Chợ Cát, tiếng súng phản kích vẫn nổ dồn dập, không dứt. Các chiến sĩ Đại đội 93 bám chặt từng gốc dừa, ruộng mía, đẩy lùi hết đợt tiến công này tới đợt tiến công khác của bọn Mỹ. Trước mặt họ, xác địch nằm ngổn ngang. Nhiều tên sợ hãi nằm ngửa mặt lên trời cầu nguyện, làm dấu thánh lia lịa.

P1-28
Các chiến sĩ sẵn sàng nhả đạn vào quân địch. Ảnh tư liệu.

          Ngày thứ hai và ngày thứ ba, Tiểu đoàn 9 không phải chỉ quần nhau với một mà là 3 tiểu đoàn Mỹ. Chúng định dồn Tiểu đoàn 9 vào tình thế bị cô lập và chia cắt, nhưng rốt cuộc, chúng lại phải xin thêm hai tiểu đoàn khác đến tăng viện. Hai tiểu đoàn này vừa từ đường số 1 thọc lên thôn Cự Tài, Cự Lễ đã bị Đại đội 91 và 94 chặn đánh. Đại đội 92 cũng xuyên qua các vườn dừa, vườn chuối đến chi viện cho Đại đội 91 và 94. Một trận đánh đẫm máu đã xảy ra trên một bãi cát gần thôn Cự Tài. Gần nửa tiểu đoàn Mỹ đã bị tiêu diệt bằng súng cối, ĐKZ57, tiểu liên và lựu đạn của các chiến sĩ Tiểu đoàn 9.

          12 giờ trưa ngày 30, Tham mưu trưởng Trung đoàn nhận được điện của Quân khu: “Các đồng chí hãy cố gắng diệt cho nhiều Mỹ, giữ vững trận địa. Số cán bộ tập huấn đang trên đường về đơn vị”. Nhận điện, Tham mưu trưởng Thương lập tức điều thêm Đại đội 82 của Tiểu đoàn 8 từ thôn Cửu Lợi (Tam Quan Nam) lên tăng cường cho hướng chính cửa Tiểu đoàn 9 ở khu vực Chợ Cát.

P1-29
Chiến sĩ thông tin trên chiến hào đánh địch. Ảnh tư liệu.

          Chiều hôm ấy, địch dùng đạn hóa học và hơi cay, lấn được một phần trận địa của Đại đội 91. Trong khi tổ chức phản kích khôi phục lại trận địa, một quả rốc két từ trực thăng phóng vào giữa đội hình Trung đội 3 làm hai chiến sĩ Anh và Tô bị thương nặng. Trung đội dừng lại định dìu Anh và Tô vào hầm trú ẩn, nhưng Anh gạt đi: “Các đồng chí có thương chúng tôi thì hãy nhanh chóng chiếm lại cho được trận địa!”. Nói xong, Anh rút ở thắt lưng ra hai quả lựu đạn đưa cho Tô một quả, bình thản nói: “Mình với cậu bị thương không chạy được thì nằm lại đây giữ phía sau cho Trung đội”. Một lát sau, một toán Mỹ ập tới. Thấy hai chiến sĩ ta nằm thoi thóp bên vệ đường, chúng đổ xô lại toan bắt sống. Anh và Tô cùng rút chốt lựu đạn. Khi các chiến sĩ Trung đội 3 chiếm được trận địa quay trở lại thì thấy gần chục xác tên Mỹ to kềnh nằm quanh thi hài của Anh và Tô. Chẳng mấy chốc, tấm gương hy sinh lẫm liệt của hai đồng chí được truyền đi khắp các đơn vị và nhân dân địa phương.

P1-30
Trực thăng Mỹ đổ quân. Ảnh tư liệu.

          Ở hướng Tiểu đoàn 7. Sau khi trực thăng đổ quân Mỹ và quân ngụy xuống khu vực ga Chương Hòa, Bình Đê, chúng tổ chức tấn công vào toàn bộ đội hình của tiểu đoàn.

          Đại đội 73 đứng trong các công sự sẵn sàng nổ súng. Anh em hỏi nhau ngoài kia là lính ngụy hay lính Mỹ?

          Khi bọn địch tiến vào gần hóa ra là lính Mỹ. Những tên lính to cao, đầu đội mũ sắt, lưng đeo ba lô to xù, tay cầm súng, kềnh càng. Dưới ánh nắng chói chang, trông da chúng đỏ au như da gà chọi. Thực lòng, lần đầu tiên thấy lính Mỹ cao to, tướng mạo hung dữ, anh em cũng hơi hoảng. Chúng dàn hàng ngang dày đặc tiến vào trận địa ta như tiến vào chỗ không người. Bọn đi đầu cách bụi tre rìa làng gần 10 mét, chúng phát hiện ra công sự của đồng chí xạ thủ trung liên, chúng hô “Vixi, Vixi!” (Việt Cộng). Ngay tức thì, Đại đội 73 nổ súng đồng loạt diệt khoảng 20 tên ngay trước công sự. Bị đánh bất ngờ, chúng chạy tán loạn ra xa, lợi dụng bờ ruộng, ụ đất bắn xối xả vào làng, và gọi pháo bắn dồn dập xuống thôn Bình Đê. Pháo ngừng bắn, bộ binh Mỹ lại dàn hàng ngang, đi lom khom, vừa đi vừa bắn, rồi xung phong… Chiến sĩ ta để chúng vào gần từ 5 đến 7 mét mới nổ súng.

          Có đợt bộ binh và xe tăng địch tiến công ồ ạt, các chiến sĩ ta phải đứng trong công sự, kẹp súng AK lia ngang từng loạt đạn. Địch chết ngổn ngang, xác chồng lên nhau trước trận địa ta. Có những tên bị thương nằm quằn quại, làm dấu thánh và la như bò rống. Sau nhiều đợt tiến công thất bại, một số tên bò vào ném lựu đạn khói màu đỏ đậm vào trận địa ta. Đồng thời nơi địch đang co cụm ngoài cánh đồng cũng bay lên những làn khói xanh thẫm. Anh em chưa biết địch dùng thủ đoàn gì vì đây là trận đánh Mỹ đầu tiên. Ngay sau đó, từng loạt bom đã giội xuống thôn Bình Đê, lúc này chiến sĩ ta mới biết địch dùng hỏa mù xanh đỏ để phân trận tuyến cho máy bay ném bom. Tiếp đến là các trận địa pháo bắn cấp tập xuống trận địa ta, rồi bộ binh, xe tăng tấn công liên tục. Sau hai ngày 28 và 29 tháng 1, qua nhiều đợt tiến công của địch, trận địa Đại 73 vẫn giữ vững. Hơn 100 lính mỹ bị tiêu diệt, 4 xe tăng bị bắn cháy.

          Trên hướng Đại đội 71 và Đại đội 72, địch sử dụng 2 tiểu đoàn lính cộng hòa và một số xe bọc thép M113 tiến công liên tục trong hai ngày vào khu vực ga Chương Hòa và Tam Quan… Nhưng chúng đều thất bại trước hỏa lực tiểu liên AK, trung liên, đại liên, B40 và cối của các chiến sĩ ta. Hơn 300 lính cộng hòa bị tiêu diệt, 5 xe bọc thép M113 bị bắn cháy.

P1-31
Lĩnh Mỹ đi càn quét, đốt nhà dân ở Bình Định. Ảnh tư liệu.

          Ngày 30-01, Tiểu đoàn điều chỉnh lại đội hình: Đại đội 71 vẫn ở Tam Quan, Chương Hòa. Đại đội 72, Đại đội 73 và Tiểu đoàn bộ ở thôn An Quý, Hội An. Cay cú trước thất bại các ngày hôm trước, địch đổ thêm một tiểu đoàn lính cộng hòa và một tiểu đoàn lính Mỹ hòng tiêu diệt quân ta. Khoảng 8 giờ, từng tốp phản lực thay nhau đến ném bom. Tiếp đến, hàng chục trận địa pháo bắn dồn dập, liên tục xuống trận địa các đại đội. Gần 9 giờ, bộ binh, xe tăng, xe bọc thép M113 của địch tổ chức tiến công vào toàn bộ đội hình Tiểu đoàn 7. Các chiến sĩ ta đã bám chắc công sự, nổ súng mãnh liệt chặn đứng các đợt tiến công của địch.

          Buổi chiều, bộ binh và xe tăng Mỹ lùi ra ngoài cánh đồng, không tấn công mà dùng bom, pháo bắn phá với hy vọng làm cho ta mất sức chiến đấu. Sau nhiều đợt bắn phá dữ dội xuống trận địa Đại đội 72, 73 và Tiểu đoàn bộ là các đợt oanh tạc bằng máy bay trực thăng. 5 trực thăng vũ trang bay đến phóng rốc két, bắn đại liên cực nhanh và ném xuống trận địa từng chùm lựu đạn hóa học. Anh em chưa quen đối phó với tình huống này nên bị ho sặc sụa, mắt cay xè, nước mắt nước mũi chảy ra giàn giụa. Khoảng 17 giờ, trận bắn phá bằng máy bay trực thăng mới kết thúc.

P1-32
Các chiến sĩ truy kích địch ở Hoài Nhơn. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Ngày hôm ấy, Tiểu đoàn 7 đã tiêu diệt gần 100 lính cộng hòa, gần 200 lính Mỹ và bắn cháy 4 xe M113. Dùng trực thăng và xe bọc thép không đột phá được trận địa ta, hai tiểu đoàn lính cộng hòa và một tiểu đoàn Mỹ xảo quyệt thúc ép dân đi trước che chắn cho chúng đi phía sau. Tham mưu trưởng Tiểu đoàn Nguyễn Xuân Hòa chưa biết xử trí ra sao thì đã thấy đồng bào ngồi thụp xuống các bờ đất. Một cuộc giằng co kéo dài giữa đồng bào và bọn lính đã diễn ra. Để hỗ trợ cho đồng bào, các chiến sĩ Tiểu đoàn 7 được lệnh bắn chỉ thiên mấy loạt súng. Được thể, đồng bào xô đẩy bọn lính chạy tản về phía sau. Rốt cuộc trên các mặt ruộng chỉ còn trơ lại bọn lính. Chúng nằm bẹp sau các gò mả, bờ đất không dám nhích lên nửa bước dưới làn đạn của quân ta.

          Trên Đồi 10, một ngọn đồi thấp nằm án ngữ bên con đường số 1, đoạn từ Tam Quan đi đèo Bình Đê. Cuộc chiến đấu của các chiến sĩ trung đội mũi nhọn thuộc Đại đội 71, Tiểu đoàn 7 trở nên vô cùng quyết liệt. Địch đông, ta ít. Địch nhiều bom đạn, ta chỉ có tiểu liên, súng trường là chủ yếu. Suốt một ngày, từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều, quân địch tấn công lên chốt 8 lần, nhưng chúng đều bị đánh bật xuống. Các chiến sĩ trung đội mũi nhọn đã phải sử dụng đến cả lưỡi lê, báng súng, dao găm đánh giáp lá cà với địch. Cuối cùng, trận địa chỉ còn lại một tổ 3 người. Rồi đạn, lựu đạn, thủ pháo cũng hết. Ba chiến sĩ ta đã đập vỡ súng rồi ôm nhau hát vang bài “Giải phóng miền Nam”, trước khi rút chốt quả lựu đạn cuối cùng, không để rơi vào tay giặc.

          Dưới chân đồi, chiến sĩ nuôi quân Vũ Văn Mã đang xếp cơm vào gùi, chuẩn bị cõng lên chốt thì một trung đội địch vòng sau lưng đội hình đại đội xộc vào nhà bếp. Mã bình tĩnh đặt gùi cơm xuống, xách súng vòng ra phía sau lần lượt hạ tám tên giặc. Bị đánh bất ngờ, địch vội vàng rút chạy. Mã rượt theo, phối hợp với mũi của Phó Đại đội trưởng diệt gọn trung đội này.

          Trên hướng đánh của Tiểu đoàn 8 ở khu vực An Thái, Cửu Lợi, mặc dù Trung đoàn đã điều Đại đội 82 chi viện cho Tiểu đoàn 9 ở Chợ Cát, các đơn vị còn lại vẫn giữ vững một hướng chiến đấu của Trung đoàn. Tại đây, các chiến sĩ Tiểu đoàn 8 đã để cho bọn Mỹ vào thật gần mới bất ngờ nổ súng, rồi đồng loạt xung phong, dùng cả báng súng, lưỡi lê, dao găm đánh giáp lá cà. Bọn lính của Sư đoàn Kỵ binh số 1 Mỹ rất sợ lối đánh này. Êtút Phôlơ phóng viên tờ Niu Yoóc thời báo đi theo quân Mỹ đã viết: “Tại làng An Thái, lính của Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 Mỹ đã phải sống những giờ phút hãi hùng nhất trong đời họ. Việt Cộng đã xông vào quá gần. Nếu dùng máy bay, đại bác sẽ gây thương vong cho cả lính Mỹ…”.

P1-33
Tượng người mẹ Bình Định vắt sữa cứu thương binh. Trưng bày tại phòng truyền thống Sư đoàn 3.

          Đó là kết quả của lối đánh gần, đánh vòng sau lưng quân địch, khiến chúng mất cả chủ động, bắn nhầm lẫn nhau. Ngày 31-01, một đại đội Mỹ ở khu vực này đã bị bom Mỹ thả nhầm chết và bị thương 80 tên. Ngay tên Đại tá Hanmoơ, chỉ huy Lữ đoàn 3 cũng chết hụt vì một quả đạn rốc-két. Ngày hôm ấy, hai đại đội Mỹ thuộc Tiểu đoàn 2, Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 đã bị các chiến sĩ Tiểu đoàn 8 tiêu diệt gần hết.

          Ngoài lực lượng của Trung đoàn 22, đối đầu với Sư đoàn Kỵ binh số 1 Mỹ còn có bộ đội tỉnh Bình Định, bộ đội huyện Hoài Nhơn, du kích và nhân dân các xã Hoài Hảo, Hoài Sơn, Hoài Thanh, Hoài Châu, Tam Quan… ngày đêm trụ bám, sống chết cùng Sư đoàn. Nhiều du kích và đồng bào đã hy sinh cùng với bộ đội trong một ngách hào, trong một công sự chiến đấu. Mới có bốn ngày, giặc Mỹ đã gây ra biết bao thương vong cho đồng bào Hoài Nhơn. Hàng trăm đồng bào bị bom pháo giết chết, hàng trăm người khác bị bắt bớ, giam cầm, hàng ngàn người bị xúc tát vào các khu tập trung. Nhưng nỗi lo lắng trước hết của đồng bào Hoài Nhơn là tính mạng của gần một trăm thương binh còn đang nằm trong các làng xóm bị địch bao vây, khống chế. Làm sao có thể nuôi dưỡng, chạy chữa và đưa anh em về bệnh xá an toàn? Trong một căn hầm ở thôn Liễu An, để cứu sống thương binh đang kiệt sức vì mất máu, vì đói khát; có những chị đang nuôi con nhỏ đã vắt kiệt hai bầu sữa của mình ra một mảnh gáo dừa rồi bón từng thìa nhỏ vào đôi môi khô bỏng của thương binh. Ở Quy Thuận, bác Tư, bác Bảy, chị Hòa, chị Đức đã đặt anh chiến sĩ Hoàng Bá ngồi trong cái khạp hình chum đan bằng tre rồi đổ khoai khô lên trên, như những người đi tản cư, khiêng Bá vượt qua ba tầng lính Mỹ đưa về Đội phẫu Trung đoàn trên núi Hưng Nhượng. Hàng chục thương binh khác cũng đã thoát khỏi vòng vây của giặc bằng những mưu mẹo, bằng tình thương của đồng bào.

          Nói sao hết được sự hy sinh không bờ bến và tấm lòng cao cả của nhân dân Hoài Nhơn đối với chiến sĩ Trung đoàn 22. Suốt trong những ngày xảy ra cuộc đọ sức quyết liệt ở Chợ Cát, Đồi Mười, An Thái, đồng bào Bắc Hoài Nhơn như người mẹ hiền chở che cho các chiến sĩ. Thắng lợi của Trung đoàn 22 chính là dựa vào yếu tố đó và sự thất bại của quân Mỹ trong khu vực này cũng chính là từ đó.

          Qua bốn ngày đêm liên tục chiến đấu với Sư đoàn Kỵ binh số 1, các chiến sĩ Sư đoàn Sao Vàng bước đầu đã hiểu được thực chất của quân Mỹ và đã tìm ra cách đánh thắng chúng. Chúng muốn đánh theo kiểu trận địa chiến, bằng phân tuyến hai bên, nhưng lại luôn luôn bị đánh ở thế xen kẽ, bị đánh gần bằng tiểu liên, súng trường, lựu đạn. Hiệu lực phi pháo, chỗ mạnh nhất của chúng bị giảm hẳn.

          Với Trung đoàn 22, sau bốn ngày đêm quần lộn với Sư đoàn Kỵ binh bay số 1, cán bộ, chiến sĩ đã trưởng thành rất nhanh. Trung đoàn đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các lực lượng vũ trang địa phương, dựa vào thế mạnh của phong trào cách mạng quần chúng, vào làng xã chiến đấu nên đã tạo điều kiện cho bộ đội bám trụ trận địa, đánh bại được thủ đoạn chiến đấu của quân Mỹ.

          Tuy vậy, công tác tổ chức, chỉ huy, bố trí lực lượng còn dàn đều nên không tập trung giải quyết dứt điểm những trận then chốt. Việc điều động lực lượng đánh bọc sườn, đánh vào phía sau đội hình địch còn chậm nên không chi viện được cho nhau, chưa khống chế và phân tán được sức cơ động của chúng.

          Bốn ngày đêm, hàng trăm lính Mỹ bỏ xác, gần năm chục máy bay bị bắn rơi. Chiến công oanh liệt đó của các chiến sĩ Trung đoàn 22 là một trong những dấu son trong trang sử chiến đấu hào hùng của Sư đoàn 3 – Sao Vàng. Không những thế nó còn đi vào lòng dân, vào các bài ca mà cho đến nay, các cô gái Hoài Nhơn vẫn hát: Bồng Sơn, Chợ Cát giặc đi không về”… và… “Ai về Bồng Sơn quê ta mà xem kìa, xác giặc còn phơi, còn phơi ngổn ngang đầy đồng. Ai về Bồng Sơn quê ta mà xem kìa, chiến công diệt Mỹ sử vàng còn ghi quân dân ta chiến thắng/ lẫy lừng… cho đồng quê ta vang mãi tiếng hò khoan…”.

          Đây là trận đối đầu đầu tiên của các chiến sĩ Trung đoàn 22 với lính “Kỵ binh bay Mỹ” trên đất Hoài Nhơn, Bình Định, góp phần đánh bại cuộc phản công chiến lược thứ nhất, mùa khô 1965-1966 của Mỹ ở chiến trường Trung bộ.

 7- THAM GIA ĐÁNH BẠI CUỘC PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC MÙA KHÔ LẦN THỨ HAI (19661967)

P1-34
Cán bộ, chiến sĩ thảo luận tác chiến trên sa bàn. Ảnh tư liệu.

          Sự thất bại của chính bản thân quân chiến đấu Mỹ trong mùa khô lần thứ nhất đã tác động mạnh mẽ đến nhân dân Mỹ. Làn sóng chống chiến tranh bùng lên trên khắp nước Mỹ. Hàng chục vạn người ở các đô thị lớn đã dồn dập xuống đường chống chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.

          Cũng sau mùa khô năm ấy, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam được đẩy lên một cao trào mới. Điển hình là cuộc đấu tranh liên tục 76 ngày đêm của nhân dân thành phố Đà Nẵng.

          Mùa Hè năm 1966, Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch Đường số 9 – Bắc Quảng Trị. Mở một hướng tiến công mới trên chiến trường miền Nam. Bộ tư lệnh Quân khu 5, trên địa bàn xung yếu của mình, quyết định mở chiến dịch Hè – Thu nhằm tiếp tục tiêu diệt quân Mỹ.

P1-35
Nhân dân Mỹ xuống đường biểu tình phản đối chiến tranh ở Việt Nam. New York, ngày 27-4-1968. Ảnh tư liệu.

          Trong chiến dịch này, Sư đoàn Sao Vàng được lệnh hành quân vào Vĩnh Thạnh mở một đợt hoạt động nhằm tiêu diệt quân Mỹ ở đó, đồng thời sử dụng một số đơn vị cùng địa phương tiếp tục làm nhiệm vụ phá kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch ở phía Bắc tỉnh Bình Định. Nhận kế hoạch của trên, Trung đoàn 22 để lại Tiểu đoàn 9 ở đồng bằng huyện Hoài Nhơn hoạt động giữ phong trào cùng địa phương; Trung đoàn (thiếu) lần lượt hành quân lên Vĩnh Thạnh. Vĩnh Thạnh là huyện miền núi phía Tây tỉnh Bình Định, cũng là địa bàn mới đối với Trung đoàn 22.

          Qua vùng Kim Sơn, Nghĩa Điền, cán bộ, chiến sĩ ai cũng xúc động trước cảnh tượng vườn không nhà trống tan hoang, xóm làng xác xơ, nhà không có người ở, vì địch xúc hết dân vào các khu dồn, ấp chiến lược. Chí còn một số gia đình theo cách mạng ở lại thì lẩn trốn trong các hang đá, bìa rừng tháng này qua năm khác, đói ăn, gầy còm, anh em bộ đội san sẻ cho dân gạo, muối… Trên đường hành quân, Tiểu đoàn 7 bị máy bay trực thăng bất ngờ ào tới phóng rốc két và đổ dồn dập một tiểu đoàn Mỹ chặn cửa rừng. Anh em phải vừa đi vừa chạy đến vị trí tập kết. Trong lúc đào công sự, hàng loạt đạn pháo bắn cấp tập xuống đội hình tiểu đoàn. Một số đồng chí bị thương vong. Tiểu đoàn nhanh chóng di chuyển sang các vị trí khác nhưng vẫn bị pháo bắn vào đội hình nơi đóng quân.

          Ở hướng khác, Trung đoàn bộ và các đơn vị trực thuộc hành quân cũng bị địch đánh phá tương tự.

          Địch chủ động phản kích trước, chúng dùng pháo binh bắn phá các khu vực ta tập kết lực lượng, đổ quân chặn hành lang, tung các đơn vị biệt kích Mỹ và Nam Triều Tiên lùng sục trong các khu rừng. Sau gần một tuần, Sư đoàn cho các đơn vị rút quân. Những ngày lui quân mới thật căng thẳng. Ta đi trên đỉnh núi, địch đi ở sườn núi. Ta bên này suối, địch bên kia suối và ngược lại. Suốt ngày luồn lách trong rừng, tay lúc nào cũng đặt sẵn sàng ở cò súng. Trang bị buộc chặt không để phát ra tiếng động, không ai dám nói chuyện. Có ngày đang đi, biệt kích nổ súng trước đội hình, giữa đội hình. Trung đoàn phải dùng lực lượng đánh ngăn chặn cho đơn vị vòng tránh sang hướng khác. Ban đêm dừng nghỉ không được đào công sự. Ngồi dựa vào gốc cây to ôm súng để sẵn sàng chiến đấu. Có một đêm biệt kích Nam Triều Tiên tập kích vào Đại đội 74 hỏa lực, chúng lấy mất một khẩu đại liên.

          Nhiều ngày các chiến sĩ phải ăn gạo rang, gạo sống, uống nước suối thay cơm. Hơn một tuần, đội hình cơ bản của Trung đoàn 22 mới luồn ra khỏi rừng trở về An Lão để củng cố. Bấy giờ anh em mới được biết Sư đoàn không thực hiện được ý đồ hoạt động ở Vĩnh Thạnh, vì một bộ phận trinh sát pháo binh bị địch phục kích lấy toàn bộ sơ đồ, kế hoạch tiến công của Sư đoàn. Tuy không thực hiện được kế hoạch giải phóng Vĩnh Thạnh, nhưng để bảo đảm hiệp đồng với chiến dịch của toàn Quân khu, Bộ tư lệnh Sư đoàn quyết định thay đổi phương án tác chiến, lệnh cho Trung đoàn 2 gấp rút quay ra Bắc Phù Mỹ đánh cắt giao thông trên đường số 1, đoạn từ Phủ Cũ đi Đèo Nhông. Trung đoàn 12 thọc xuống Tây Phù Cát tiến công địch trên khu vực Phù Mỹ, Phù Cát. Ở Bắc Hoài Nhơn, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 22 được lệnh tăng cường hoạt động, làm lạc hướng và giam chân quân Mỹ ở đó.

          Cũng như cuối năm 1965, sau khi tổ chức đánh Thạch Trụ, Mỹ Trang không thành công, Sư đoàn nhanh chóng chuyển hướng chiến dịch lên Minh Long và đã thu được thắng lợi lớn. Lần này, Sư đoàn quyết định rời Vĩnh Thạnh chuyển hướng xuống đồng bằng. Đây là một quyết định nhạy bén và kịp thời bởi nếu Sư đoàn cứ bám lấy quyết tâm cũ, thì không những không thực hiện được ý đồ chiến dịch mà còn sẽ bị thương vong. Mặt khác, đột ngột chuyển hướng tiến công xuống đồng bằng sẽ tạo được thế chủ động mới và gây bất ngờ lớn đối với địch.

          Lúc bấy giờ, ở Hoài Nhơn, những trận đánh của Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 22 vẫn liên tiếp diễn ra quyết liệt. Ngày 5-5, một Tiểu đoàn của Lữ đoàn 3, Sư đoàn Kỵ binh số 1 Mỹ và một Tiểu đoàn ngụy có 12 xe M113 yểm trợ đã mở một đợt tiến công ồ ạt vào Tiểu đoàn 9 ở thôn Trường Sơn, xã Hoài Sơn. Đồng chí Nguyễn Đức Thảnh, một cán bộ quân giới Trung đoàn khi đi phối thuộc với Tiểu đoàn 9, trong tình huống gay cấn nhất, đã dùng súng trường CKC bắn rơi 1 máy bay trực thăng. Khi xe bọc thép M113 lao vào trận địa, đồng chí Thảnh dùng súng CKC bắn gục tên xạ thủ súng máy trên xe, khiến cho nó phải lùi ra xa. Gặp phải những chiến sĩ dũng cảm, mưu trí của ta đánh trả quyết liệt như vậy nên tám lần xông vào trận địa là cả tám lần bọn địch bị đánh bật khỏi bìa làng, bỏ lại 80 xác lính và ba xe M113. Đêm đó, bọn địch bao vây làng, định ngày hôm sau sẽ tăng quân, tiêu diệt Tiểu đoàn 9 cho bằng được. Nhưng vào khoảng 3 giờ sáng, Tiểu đoàn 9 được du kích dẫn đường, lặng lẽ di chuyển ra ngoài vòng vây qua xóm 1 và xóm 2 thôn Thành Sơn cách đó ba kilômét.

P1-36
Nhằm chặn đường tiến công của địch, Công binh Sư đoàn 3 đã đánh sập cầu Bồng Sơn tháng 2-1966. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Hôm sau, trời vừa hửng sáng, bọn giặc đã mở đợt tiến công vào làng. Nhưng chúng chỉ gặp các bà má, bà thím đang chờ sẵn giữa làng với những ngôi nhà cháy, những con heo, con bò bị đại bác bắn chết. Một cuộc đấu tranh chính trị mềm mỏng nhưng sắc sảo đã diễn ra. Các bà má, bà thím, không ngớt tố cáo tội ác dã man của quân Mỹ, đòi chúng phải bồi thường tài sản và không được bắn pháo bừa bãi vào trong thôn xóm nữa.

          Biết Tiểu đoàn 9 đã rút ra ngoài vòng vây, bọn địch vội vã điều thêm ba tiểu đoàn Mỹ, hai tiểu đoàn ngụy, một chi đoàn xe bọc thép kéo đến bao vây toàn bộ thôn Thành Sơn. Trận đánh không cân sức một trên bảy đã diễn ra dai dẳng suốt ngày. Tuy giặc chết mỗi lúc một nhiều trước bìa làng, nhưng vòng vây của chúng vẫn cứ dần dần siết chặt. Nhận thấy sự bất lợi của trận đánh, ngày hôm sau, cán bộ Chỉ huy Tiểu đoàn lại quyết định phá vây bằng một trận tập kích chớp nhoáng vào gần sáng. Lực lượng chiến đấu đã ra ngoài vòng vây, nhưng thương binh nặng đành phải để lại trong những căn hầm bí mật của nhân dân.

          Liên tiếp ba ngày sau, bọn giặc dắt theo bọn chỉ điểm và chó béc giê về Thành Sơn sục sạo, tra khảo nhưng vẫn không tìm thấy dấu vết gì. Những người dân kiên cường của Thành Sơn đã đem xương thịt của mình ra che chở cho các chiến sĩ. Em Hương, em Thành bị đánh chết đi sống lại, bác Hai Tạo bị bẻ gãy răng, đốt trụi râu, hàng chục người khác bị bắt trói ném lên trực thăng chở đi, nhưng không ai hé răng khai báo một lời. Trong khi đó, các chiến sĩ bị thương vẫn được băng bó, nuôi giấu chu đáo trong các căn hầm nằm sâu trong lòng đất rồi bằng nhiều cách hợp pháp, bất hợp pháp, bà con Thành Sơn đã đưa được 18 thương binh về Đội phẫu thuật của Trung đoàn an toàn.

          Một buổi chiều, trong lúc trở lại xóm 3 Thành Sơn kiểm tra trận địa, Chính ủy Trung đoàn Hồ Sĩ Lộc, bất ngờ gặp một toán lính Mỹ đang đi xăm hầm, tình huống trên buộc anh phải chiến đấu, anh vừa định rút chốt lựu đạn thì một bàn tay phụ nữ gầy guộc đã chặn lại và đẩy anh xuống một căn hầm đã mở nắp sẵn. Lát sau, khi bọn giặc la hét ập tới, chúng chỉ gặp một bà thím tay chân bẩn thỉu đang thản nhiên lao động. Người phụ nữ đó là thím Bồng. Với sự nhạy bén và dày dạn của người dân sống trong lòng địch, thím đã xử trí rất linh hoạt, vừa bảo đảm an toàn cho đồng chí Chính ủy, vừa tránh được thiệt hại không cần thiết do quân Mỹ gây ra cho địa phương.

          Sau một số trận đánh bất ngờ khác, Tiểu đoàn 9 lại biến mất. Giữa lúc địch còn đang bực bội tìm kiếm thì chúng lại bị đòn tập kích đau ở Hoài Hảo, Tam Quan, 230 tên Mỹ bị diệt, 12 trực thăng bị phá hủy. Vài ngày sau, 40 chiến sĩ xung kích và hỏa lực của Tiểu đoàn lại tập kích chớp nhoáng vào bãi đậu trực thăng Mỹ ở Tân An, Hoài Châu, phá hủy 15 máy bay, nhiều lính Mỹ và sĩ quan bị tiêu diệt. Thực hiện chủ trương tăng cường hoạt động ở đồng bằng, Trung đoàn 22 đưa tiếp Tiểu đoàn 7 xuống phía Đông đường số 1 huyện Hoài Nhơn.

          Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 7 luồn lách xuống Đông đường số1, đứng chân ở xã Hoài Thanh. Sau mấy ngày chuẩn bị, Tiểu đoàn 7 tập kích một đại đội cộng hòa, mang phiên hiệu “2 sông – 3 núi” khét tiếng hung ác, xảo quyệt. Đội hình chiến đấu của Tiểu đoàn phải di chuyển liên tục trong đêm vì địch chuyển nơi ngủ hai, ba lần. Đến khoảng 3 giờ sáng, đại đội địch cụm lại trong một số nhà hoang cạnh đường sắt, đường số 1 thuộc thôn Tài Lương. Tiểu đoàn lệnh nổ súng, cối 60, 82, B40, ĐKZ57… bắn dồn dập vào các ngôi nhà. 5 phút sau, Đại đội 71 từ phía Đông, Đông Bắc đánh xuống. Đại đội 73 từ phía Nam, Tây Nam đánh lên. Bộ đội xông vào các ngôi nhà, dùng tiểu liên, lựu đạn diệt địch trong công sự, trong các đường hào. Địch chết ngổn ngang, một số tên sống sót giơ tay xin hàng. Sau 30 phút chiến đấu, Tiểu đoàn diệt gọn đại đội này, bắt sống 8 tên địch.

          Ngày hôm đó tiểu đoàn đứng chân ở các thôn thuộc xã Hoài Thanh. Riêng Đại đội 72 đứng gần đường số 1, đánh chặn địch đi giải tỏa.

          Từ Đông đường, Tiểu đoàn 7 lại hành quân lên đứng chân ở các thôn Hy Thế, Hy Văn, Liễu An, Tường Sơn… tiếp tục đánh quân Mỹ, ngụy đi càn quét. Cứ như vậy, khi ta đánh du kích, lúc đánh tập trung, khi ở Đông đường, rồi lại đột ngột xuất hiện ở Tây đường, kết hợp với du kích và các tổ công tác địa phương diệt ác ôn, tuyên truyền vận động bà con quyết không vào các khu dồn, ấp chiến lược của địch…

P1-37
Chú thích ở góc trái trên bức ảnh: Lính của Sư đoàn kỵ binh số 1 của Mỹ xông vào trong làng. Chúng được tin tình báo: “Có 1 trung đội Việt Cộng ở trong làng”, nhưng tôi chả thấy Việt Cộng ở đâu mà chỉ thấy dân thường trong khói lửa. Năm 1966. Tại Bình Định. IncredibleImage4u.blogsPost.com

          Những trận tiến công liên tục, chớp nhoáng của Trung đoàn 22 ở Hoài Nhơn không chỉ diễn ra trong mùa hè mà còn xảy ra trong suốt cả mùa thu năm đó.

          Không đạt được mục đích mà còn bị thua đau trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, cùng với quyết định tăng thêm cường độ của chiến dịch “sấm rền” của không quân đánh phá miền Bắc, chính quyền Giônxơn chủ trương tiếp tục xoay chuyển tình hình chiến trường miền Nam vào mùa khô thứ hai (l966 – 1967).

          Để thực hiện mưu đồ đó, Mỹ tăng quân viễn chinh từ 20 vạn lên 40 vạn vào cuối năm 1966. Nhiệm vụ “bình định nông thôn” trước đây ở hàng thứ yếu, giờ được nâng lên ngang hàng với nhiệm vụ “tìm diệt”. Quân Mỹ “tìm diệt”” cho quân ngụy “bình định”. Mac Namara than thở: “Chúng ta đang ở trong tình trạng bế tắc về leo thang chiến tranh”. Tuy vậy, y cũng phải thừa nhận rằng, leo thang quân sự là biện pháp duy nhất mà Mỹ buộc phải lựa chọn trong thời gian đó.

P1-38
Du kích Hoài Nhơn cùng các chiến sĩ Trung đoàn 22 chiến đấu bảo vệ quê hương. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Mục tiêu chủ yếu của Mỹ trong mùa khô 1966 – 1967 là miền Đông Nam Bộ mà trọng điểm là căn cứ Dương Minh Châu của ta. Còn ở chiến trường Tây Nguyên, Khu 5 chúng sử dụng lực lượng để kiềm chế không cho ta đánh lớn.

          Bước vào mùa khô thứ hai, bọn Mỹ – ngụy đã thực hiện một chiến dịch xúc tát dân hết sức thâm độc và tàn bạo. Chúng dùng xe ủi san phẳng nhà cửa, ruộng vườn để dân không thể quay trở về làng cũ được nữa, đồng thời dùng trực thăng bốc dân từng làng, từng xã đổ xuống các khu dồn quanh các thành phố, thị xã, thị trấn trong vùng kiểm soát của chúng. Kết hợp với chiến dịch xúc tát dân, lập vành đai trắng, là những cuộc hành quân “chài lết”, phục kích, sục sạo dai dẳng hàng tháng ở một địa điểm trong các vùng giáp ranh, các khu căn cứ và dùng máy bay ném bom B52, rải chất độc hóa học tàn phá núi rừng, ngăn chặn sự di chuyển của quân ta. Đánh vào hai chỗ dựa thiết yếu của Quân Giải phóng là dân và vùng căn cứ, bọn Mỹ hy vọng có thể cô lập và tiêu hao lực lượng kháng chiến để giành thế chủ động trong mùa khô 1966 – l967.

          Do việc xúc tát dân và tăng cường đánh phá ác liệt các hành lang, cửa khẩu của địch, Sư đoàn Sao Vàng, một Sư đoàn mà sự ra đời và trưởng thành gắn liền với từng người dân, từng tấc đất của miền Trung gặp vô vàn khó khăn. Càng ngày việc tiếp tế lương thực, đạn dược càng trở nên hiếm hoi. Trong các trận đánh, hỏa lực sư đoàn, trung đoàn đã phải bắn cầm chừng, cân nhắc từng quả đạn. Đạn súng trường, đạn tiểu liên cũng ở trong tình trạng tương tự.

          Tháng 10-1966, Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy 5 ra lời kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Khu 5 quyết tâm vượt mọi khó khăn, ác liệt, đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của địch. Hưởng ứng lời kêu gọi của Quân khu, Đảng ủy Sư đoàn họp đánh giá tình hình và quyết tâm xây dựng Sư đoàn thành Sư đoàn tiên tiến. Các Trung đoàn quyết tâm phấn đấu trở thành “Trung đoàn thép”.

          Một đợt sinh hoạt chính trị được tổ chức sâu rộng trong toàn Sư đoàn. Các chiến sĩ Trung đoàn 22 đang làm nhiệm vụ ở Hoài Nhơn, Trung đoàn 2 ở Phù Mỹ, Trung đoàn 12 ở Vĩnh Thạnh… thay nhau vừa tác chiến dựa vào cơ sở địa phương, tổ chức học tập. Cuộc đấu tranh giữa đúng và sai diễn ra gay gắt, nhưng thẳng thắn ở từng đơn vị. Các Chính trị viên Tiểu đoàn, Đại đội đã phân tích những thắng lợi to lớn của ta trong mùa khô thứ nhất, trong các chiến dịch Xuân và Hè. Từ đó đi đến kết luận, mặc dù quân Mỹ và quân ngụy có đông thêm, nhiều thêm nhưng chúng đã tăng quân trong thế thua, thế bị động.

          So với mùa khô thứ nhất, lực lượng xung kích chủ yếu của địch trên chiến trường Bình Định vẫn là Sư đoàn Kỵ binh số 1 Mỹ. Nhưng lực lượng ngụy quân, ngụy quyền, đặc biệt là bọn lính địa phương thì tăng lên rõ rệt. Do đó, việc “bình định nông thôn” cũng khốc liệt hơn mùa khô trước gấp bội.

          Thủ đoạn đánh phá của quân Mỹ cũng có nhiều thay đổi. Mùa khô trước, quân Mỹ ồ ạt đánh lướt khiến quân ngụy không trụ nổi ở các vùng quân Mỹ vừa “tảo thanh” để gom dân, lập ấp. Vì thế, mùa khô này, quân Mỹ chủ trương đánh phá dai dẳng ở từng khu vực.

          Chúng cho máy bay chở lô cốt, rào kẽm gai, máy cưa, máy ủi thiết lập các trận địa pháo, xây dựng các cứ điểm để dừng chân dài ngày, làm chỗ dựa cho quân ngụy tiến hành “bình định”. Cứ điểm Gò Loi, Chóp Chài; trận địa pháo Xuân Sơn (Hoài Ân), và một loạt cứ điểm khác ở Bình Định đã được xây dựng theo ý đồ của Mỹ.

          Bước vào mùa khô thứ hai, lực lượng vũ trang Quân khu 5 được tăng cường và thế bố trí chiến dịch cũng được điều chỉnh lại. Tháng 10-1966, Bộ tư lệnh Quân khu quyết định mở chiến dịch Đông – Xuân 1966 – 1967, nhằm đánh qụy cả hai gọng kìm chiến lược “tìm diệt” và “bình định” của quân Mỹ và quân ngụy trên địa bàn Quân khu. Xuất phát từ nhiệm vụ trên, trong chiến dịch Đông – Xuân hoạt động của Sư đoàn Sao Vàng được chia làm hai đợt: Đợt một từ trung tuần tháng 12-1966 đến hết tháng 1-1967. Đợt hai kết thúc vào cuối tháng 3-1967. Nhiệm vụ chủ yếu của Sư đoàn Sao Vàng là tiến công đánh bại các cuộc hành quân “bình định” của quân Mỹ và quân ngụy, song song với việc đánh vào các căn cứ điểm tựa của chúng. Chiến trường của Sư đoàn vẫn là Bắc Bình Định mà khu vực chính là huyện Hoài Ân, trọng điểm càn quét và đóng chốt của quân Mỹ.

          Suốt trong những ngày Trung đoàn 22 và các đơn vị trong Sư đoàn chuẩn bị bước vào chiến dịch, bọn biệt kích Mỹ, ngụy, Nam Triều Tiên không ngừng thay nhau lùng sục vào các hẻm núi, đổ quân xuống các điểm cao, nhưng vẫn không sao phát hiện được hướng tiến công chính của ta.

 8TRẬN TẬP KÍCH XUÂN SƠN ĐÊM 25121966

P1-39
Đồng chí Sơn Diệp, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 22 báo cáo phương án tác chiến đánh trận địa pháo Xuân Sơn tại Hội nghị Đảng ủy Trung đoàn. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Trong khi Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 22 được tách ra phối hợp với Trung đoàn 2 tấn công địch ở Nam tỉnh Quảng Ngãi; theo phương án của Sư đoàn, Trung đoàn 22 (thiếu Tiểu đoàn 7) tổ chức tập kích tiêu diệt căn cứ pháo binh dã chiến của Mỹ trên đồi Xuân Sơn.

          Xuân Sơn là một ngọn đồi thấp thuộc xã Ân Hữu, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Ba phía đồi là ruộng hoang, mưa lũ tràn về trắng xóa. Sông Nước Lương chảy ở chân đồi phía Đông, nước réo sôi sục, đục ngầu. Trên đỉnh đồi, bọn Mỹ bố trí một trận địa pháo 105 và 155 ly gồm có 12 khẩu. Ngoài pháo binh, chúng còn tăng cường một tiểu đoàn bộ binh (thiếu), một trung đội công binh, tất cả khoảng 650 tên Mỹ.

          Dạo ấy đang vào những ngày cuối năm, trời mưa tầm tã. Từ An Lão, các chiến sĩ hai Tiểu đoàn 8 và 9 phải trải qua hai ngày đêm vượt rừng, lội suối mới vào tới vị trí tập kết. Đến nơi, người nào cũng ướt sũng, mệt vì đói và mất ngủ. Mỗi Đại đội chỉ còn từ 35 đến 40 tay súng.

P1-40
Trận địa pháo của quân Mỹ. Ảnh tư liệu.

          So với hai tiểu đoàn địch trong căn cứ có công sự, lô cốt dã chiến, số lượng quân ta quả là quá chênh lệch. Nhưng biết chắc bọn địch mới ở Tây Nguyên về không thông thạo địa hình, lại chủ quan. Đảng ủy và cán bộ Chỉ huy Trung đoàn 22 hạ quyết tâm diệt căn cứ này.

          Mọi việc chuẩn bị được hoàn thành vào đêm ngày 23, nhưng trưa ngày 24, trời đột nhiên đổ mưa lớn. Nước lũ tràn về ngập đầy các cánh đồng, bộ đội phải vượt qua để vào chiếm lĩnh trận địa. Sau khi hội ý, Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn quyết định lui giờ nổ súng vào đêm 25, rạng ngày 26. Việc hoãn giờ nổ súng cũng căng thẳng quyết liệt như khi phát lệnh nổ súng. Bởi vì, bộ đội đã vào vị trí tập kết rồi, dừng lại hai ngày liệu có giữ được bí mật trong khi máy bay trực thăng trinh sát địch thường xuyên quần lượn, xoi mói trên đầu! Rồi bom, pháo không ngớt giội xuống xung quanh căn cứ, tạo thành một vành đai chết để bảo vệ an toàn cho quân Mỹ. Cuối cùng, Trung đoàn quyết định chuyển đội hình vào sát căn cứ cách địch từ 200 đến 500 mét để đón thời cơ nổ súng tiến công và tránh phi pháo sát thương.

          Với quyết định đó, cán bộ Chỉ huy Trung đoàn 22 đã tạo được thế bất ngờ. Địch không thể lường được cách chúng chỉ vài trăm mét, đối phương đã nằm chờ sẵn trong các khe suối, bụi cây. Chúng càng yên tâm bởi những loạt bom và pháo không ngớt dập xuống các vị trí mà chúng cho rằng, muốn tiến đánh Xuân Sơn, đối phương không thể không tập kết giấu quân ở đó.

          Nửa đêm ngày 25-12, Trung đoàn trưởng Sơn Diệp phát lệnh nổ súng. Từng chùm đạn cối 82, ĐKZ-75 lập tức trùm lửa lên mặt đồi. Các súng máy cao xạ cũng hạ nòng, quét đạn tới tấp vào các dãy nhà bạt căng san sát như nón úp trong căn cứ địch.

          5 phút sau, đợt tập kích hỏa lực vừa dứt, từ ba hướng, các chiến sĩ xung kích chia làm sáu mũi ào lên. Tiểu đội trinh sát thọc sâu của Nguyễn Văn Bình lướt rất nhanh về phía trận địa pháo 155 ly đặt giữa đỉnh đồi. Quan sát trong các nhà bạt, Bình thấy xác lính Mỹ chết nằm đầy. Thì ra, trời mưa làm các công sự địch ngập nước buộc bọn lính phải nằm phơi ra trên mặt đất để hứng những loạt đạn tập kích bất ngờ của ta.

          Sáu tiểu đội thọc sâu như sáu mũi dao nhọn cắm vào đội hình địch. Nhưng con thú bị thương bao giờ cũng là con thú nguy hiểm. Chỉ dăm phút sau, các hỏa điểm địch đã ngóc dậy bắn như vãi đạn vào đội hình mũi chủ yếu. Chiến sĩ Nguyễn Xuân Lộc, người đoàn viên thanh niên ưu tú đang cầm lá cờ “Quyết tâm lập công” xông lên bỗng lảo đảo ngã xuống. Từ phía sau, Đại đội trưởng Khoa lao tới đỡ Lộc, đặt sang một bên rồi tiếp tục cầm ngọn cờ dẫn Đại đội xông lên. Khoa vừa nhảy qua một đoạn hào thì trúng đạn ngã xuống. Sau lưng Khoa, Trung đội phó Vũ Minh chồm tới, quật vào ổ súng máy địch hai quả lựu đạn rồi đỡ lấy ngọn cờ. Chưa kịp xốc đội hình đánh tiếp, Minh đã lại đổ xuống bên cạnh Đại đội trưởng bởi một quả lựu đạn của địch. Vừa lúc ấy, Chính trị viên phó Thiệu kịp thời dẫn Trung đội 3 vòng qua phía sau, lần lượt dập tắt những ổ đề kháng của địch. Lá cờ lỗ chỗ vết đạn và đẫm máu của Lộc, Khoa, Minh đã được Thiệu giương lên. Trong ánh đèn dù chập chờn, lá cờ như một ngọn lửa đỏ vẫy gọi các chiến sĩ xốc tới. Vào phút thứ chín của trận đánh, lá cờ đã được cắm lên nòng khẩu pháo lớn của địch trên đỉnh đồi.

          Ở nửa căn cứ bên kia, Đại đội 83 cũng đang đánh Mỹ bằng tiểu liên và lựu đạn. Một chiến sĩ chợt nhìn thấy một tên Mỹ ngồi trong công sự nước ngập tới thắt lưng, giơ thẳng súng lên trời bắn hết băng đạn này đến băng đạn khác như một kẻ mất trí.

          “Giơ tay lên!”. Người chiến sĩ lao đến, mũi lê chĩa vào tấm lưng to bè của nó.

          Tên Mỹ ngừng bắn, quay lại trố mắt nhìn ngơ ngác, khuôn mặt bê bết bùn đất. Sực nhớ mình đã hô bằng tiếng Việt, anh chiến sĩ hấp tấp hô to: “Hen-đơ ắp!” bằng tiếng Anh (Mỹ), đã học thuộc từ trước.

          Lúc ấy tên Mỹ mới đứng dậy, run rẩy giơ hai cánh tay đầy lông lá lên trời, khẩu AR.15 rơi xuống dưới chân nó.

          Sở chỉ huy Trung đoàn nhận được báo cáo: Hướng chủ yếu Tiểu đoàn 8 đã chiếm được khu trung tâm chỉ huy và một phần trận địa pháo địch. Riêng mũi vu hồi đang gặp khó khăn. Hướng tiểu đoàn 9 phát triển thuận lợi. Lập tức, lực lượng dự bị được tung vào hướng vu hồi. Vào phút thứ 15 của trận đánh, Tiểu đoàn 9, Tiểu đoàn chiến thắng Chợ Cát, Thành Sơn đã báo cáo: Toàn bộ quân địch đã bị tiêu diệt.

P1-41
Các chiến sĩ tấn công địch. Ảnh tư liệu.

          20 phút sau, bọn Mỹ điên cuồng giội pháo xuống ngay đồi Xuân Sơn. Cũng ngay trong đêm ấy, chúng cấp tốc điều Lữ đoàn 3, Sư đoàn 25 phối hợp với Sư đoàn Kỵ binh số 1 đi giải tỏa. Suốt trong năm ngày đêm đạn đại bác, rốc két và bom đánh nát tất cả các khu rừng còn sót lại. Từng tốp trực thăng bốc lên, đổ xuống đen đặc. Những trận đánh vô cùng khốc liệt lại diễn ra.

          Trời vẫn mưa tầm tã. Bom pháo địch vẫn điên cuồng trút xuống đội hình của Trung đoàn. Bộ đội, thương binh không còn gì để ăn nữa. Đôi lúc gặp được một tổ du kích hoặc một vài đồng bào địa phương đem cho ít gạo nhưng không thể nào nấu được cơm, đành chia cho mỗi người một nắm nhai sống ăn giữ sức.

P1-42
Lính Mỹ bị thương vong. Ảnh tư liệu.

          Sang đến ngày thứ sáu, Trung đoàn quyết định chấm dứt đợt tác chiến. Chiều hôm đó, một Trung đội bộ đội huyện Hoài Ân tìm bắt liên lạc được với Trung đoàn. Cả Trung đoàn chia thành nhiều mũi, xuyên rừng, vượt qua những hàng rào bom đạn dày đặc, trở về căn cứ.

          Trận tập kích Xuân Sơn đã kết thúc giòn giã năm 1966. Nó đã giáng một đòn nặng nề vào chiến thuật “điểm tựa”, “đóng chốt” để càn quét dai dẳng của quân Mỹ. Trong tổng kết của Bộ tư lệnh Quân khu 5, trận Xuân Sơn được đánh giá là một điển hình về tập kích tiêu diệt gọn 2 tiểu đoàn Mỹ, là trận đánh có giá trị chiến thuật cao, mở ra khả năng Trung đoàn chủ lực thực hiện rộng rãi hình thức tập kích diệt gọn từng tiểu đoàn Mỹ.

          Để tiến hành thắng lợi trận đánh kể trên, các đội trinh sát, các cán bộ Chỉ huy Sư đoàn, Trung đoàn 22 đã lặn lội hàng tháng ròng xung quanh căn cứ địch. Các chính trị viên đại đội, tiểu đoàn, các cơ quan chính trị đã tổ chức thành công các đợt sinh hoạt tư tưởng, khơi dậy, nung nấu ý chí quyết chiến, quyết thắng của từng chiến sĩ. Hình ảnh lá cờ đẫm máu, đầy vết đạn đã được truyền qua hết tay người này đến tay người khác cho đến khi tung bay trên nòng pháo địch đã thể hiện rõ khí phách, ý chí tiến công triệt để của Trung đoàn 22.

P1-43
Đồng chí Quốc Khánh, Phó Ban tuyên huấn Sư đoàn 3 đọc lời tuyên dương chiến công của Trung đoàn 22 trong 2 mùa khô đánh Mỹ 1966, 1967, đặc biệt là chiến thắng Xuân Sơn tại Đại hội Chiến sĩ thi đua Sư đoàn 3 tháng 11-1968. Ảnh: Đinh Tơ.

          Kết hợp với sức mạnh của ý chí là việc lập phương án tác chiến chính xác, cũng như quá trình chỉ huy xử trí tình huống trước và sau trận đánh của cán bộ Chỉ huy Trung đoàn, việc đưa đội hình vào sát căn cứ nằm đợi và thời điểm tung lực lượng dự bị chi viện cho mũi vu hồi kịp thời là những yếu tố quyết định thắng lợi của trận tập kích.

P1-44
Đồng chí Lưu Đình Quyết (người cầm gậy), Trợ lý thanh niên Trung đoàn 22 trình bày diễn biến trận tập kích Xuân Sơn tại Đại hội Chiến sĩ thi đua Sư đoàn 3 tháng 11-1968.                Ảnh: Đinh Tơ.

          Tin chiến thắng Xuân Sơn bay về đúng lúc Đại hội Chiến sĩ thi đua và Dũng sĩ diệt Mỹ toàn Quân khu 5 lần thứ hai đang tiến hành sôi nổi. Đại hội nhất trí công nhận trận tập kích trận địa pháo hỗn hợp Xuân Sơn là một kỷ lục, ngọn cờ đầu về diệt gọn đơn vị Mỹ của toàn Quân khu năm 1966. Với chiến thắng Xuân Sơn, Trung đoàn 22 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì.

          Chiến thắng Xuân Sơn đã đi vào lịch sử của Sư đoàn 3 – Sao Vàng, Quân khu 5 và của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Kinh nghiệm về trận tập kích Xuân Sơn của Trung đoàn 22 đã được đưa vào giáo trình giảng dạy tại Học viện Lục quân Đà Lạt.

 9NĂM 1967

P1-45
Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 22 thảo luận kế hoạch tác chiến trên sa bàn. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Mặc dù bị thất bại trong hai mùa khô phản công chiến lược, nhưng với tiềm năng quân sự lớn và bằng các thủ đoạn xúc tát dân tàn bạo, địch đã lập được chính quyền bù nhìn ở hầu khắp các khu vực đông dân trong tỉnh Bình Định và biến vùng giáp ranh, bàn đạp của Sư đoàn Sao Vàng thành vùng trắng.

          Đó là một trong những thời kỳ khó khăn, căng thẳng của chiến trường Bình Định. Ở những vùng địch tạm thời kiểm soát, quân bình cứ ba người dân có một tên lính trực tiếp kìm kẹp. Những làng mạc, thị trấn, thành phố phút chốc trở nên chật chội bởi vì dân ở các vùng nông thôn và giáp ranh bị dồn đến. Hàng trăm khu dồn được thiết lập. Người dân sống chui rúc sau những hàng rào kẽm gai. Đi làm hoặc trở về đều phải qua trạm kiểm soát. Ban đêm mỗi nhà phải đặt một ngọn đèn dầu trước cửa. Ra khỏi nhà phải lên tiếng báo trước. Nhiều người không kịp nói đã bị bọn lính rình rập, bắn chết ngay tại chỗ.

P1-46
Các chiến sĩ tấn công địch. Ảnh tư liệu.

          Ở những vùng giáp ranh, nơi trước đây là làng mạc, vườn tược, giờ chỉ còn lơ thơ một vài bờ tre, ngọn dừa. Lính Mỹ, lính Nam Triều Tiên chài lết dai như đỉa. Còn vùng rừng núi thì bom B52 và chất độc hóa học đã biến những khu rừng đại ngàn thành những khu rừng khô trắng. Ngày nào cũng như ngày nào, sau mỗi đợt B52 ném bom rải thảm, từng bầy trực thăng vũ trang thay nhau, quần lượn trên những rừng cây trụi lá, sẵn sàng xả súng hoặc đổ quân xuống bất kỳ nơi nào.

          Nằm trong đội hình Sư đoàn Sao Vàng, sau hai năm chiến đấu liên tục, quân số của Trung đoàn 22 mỗi ngày một hao hụt, gạo, đạn mỗi ngày một ít đi. Thời gian này đội hình Trung đoàn 22 hầu hết đứng ở dãy núi Hưng Nhượng, nơi tiếp giáp giữa hai huyện Hoài Nhơn (phía Đông) với huyện An Lão (phía Tây). Đây cũng là một trong những hậu cứ rất quan trọng của Trung đoàn 22 và các đơn vị khác trong Sư đoàn.

          Ngay từ đầu năm 1967, tình hình ở hậu cứ trên núi cũng rất căng thẳng. Quân biệt kích Mỹ, Nam Triều Tiên thường xuyên lùng sục trên rừng, thả những máy thu, phát tiếng động để phát hiện lực lượng ta. Hàng ngày máy bay trinh sát L19 và OV10 quần lượn dai dẳng trên các khu rừng, dùng loa công suất lớn lải nhải chiêu hồi quân Giải phóng.

          Tiểu đoàn 7, bệnh xá Trung đoàn và cả Trung đoàn bộ cũng có lần bị biệt kích Mỹ thọc vào nổ súng. Ta đánh chặn quyết liệt rồi cơ động sang vị trí khác. Có trận địch táo bạo dùng trực thăng bay treo (đứng tại chỗ trên không) thả thang dây để lính leo xuống nổ súng tập kích ta. Chưa bao giờ ở trên rừng mà lại căng thẳng dài ngày như thời gian này. Các đơn vị phải thường xuyên di chuyển từ suối Giang đến suối Nước Bo, Nước Điệp, Hóc Đèn… rồi lại quay về suối Giang.

          Nơi ở không ổn định, đời sống lại vô cùng khó khăn. Thời gian đầu còn luồn lách xuống Hoài Nhơn lĩnh gạo, sắn khô; xuống Phổ Cường lĩnh khoai lang khô. Sau đó địch dùng từng đại đội Mỹ chặn cửa rừng dài ngày. Anh em phải ăn cháo môn thục, môn dóc, củ móng ngựa, củ ráy rừng… Những củ ráy to bằng phích nước, ninh lâu cũng nát hết, khi húp cháo trong họng thấy ngưa ngứa, nhưng vẫn phải ăn để mà sống. Trung đoàn cho trinh sát tìm đường, lách qua những khu vực địch phục kích, dẫn các đơn vị xuống Phổ Cường lĩnh lương thực. Nhưng đi ba lần thì hai lần gặp địch phải đeo gùi trở về. Cứ mỗi lần bộ phận đi lĩnh gạo lên đường, bộ phận ở nhà lại chuẩn bị đòn khiêng để khênh cáng thương binh, tử sĩ ở cửa rừng về đơn vị.

          Trước tình hình đó, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Sư đoàn kết hợp chặt chẽ với Tỉnh ủy, Tỉnh đội Bình Định chủ trương phát huy mạng lưới hậu cần, tuyển quân ở các vùng địch kiểm soát và tích cực khai thác “hậu cần tại chỗ”. Mặt khác, chủ động phá thế kìm kẹp của địch, cài lực lượng xuống đồng bằng, xuống vùng sâu, dựa vào dân, bám dân để tồn tại và đánh địch.

          Đây là một quyết định cực kỳ quan trọng và chính xác, bởi vì nếu cứ tiếp tục cho bộ đội đứng ở trên núi thì đến một lúc nào đó sẽ không còn đất và có điều kiện để đứng nữa. Trong hoàn cảnh lúc đó, đưa lực lượng xuống hẳn vùng sâu là một việc hết sức táo bạo và rất nguy hiểm. Nhưng do hiểu dân, nắm được dân nên Sư đoàn quyết tâm cắm trước một phần ba lực lượng xuống đồng bằng Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài Ân, Hoài Nhơn và phát triển sâu vào phía Nam tỉnh. Có dân là có tất cả. Hơn nữa, khi lực lượng ta xuất hiện và hoạt động ở giữa hậu phương địch, buộc chúng phải co lại đối phó. Từ đó, những cuộc hành quân càn quét ở vùng giáp ranh và trên núi phải giảm bớt, tạo điều kiện cho các bộ phận còn lại mở rộng bàn đạp, khai thông các hành lang tiếp tế, vừa đánh địch, vừa tăng cường cơ sở sản xuất tự cấp, tự túc.

          Thực hiện chủ trương của Sư đoàn, giữa tháng ba, các đơn vị của Trung đoàn 22 lần lượt xuyên rừng, vựợt qua vùng giáp ranh xuống huyện Hoài Nhơn.

          Các tiểu đoàn, đại đội trực thuộc như cối, pháo, công binh, trinh sát, thông tin và cả cơ quan Trung đoàn bộ cũng được tăng cường cho các Tiểu đoàn 7, 8, 9 hoạt động độc lập với phương châm tác chiến là: Ban ngày ở trong hầm bí mật, ban đêm lên tác chiến, phá thế kìm kẹp, kéo địch về đồng bằng đối phó, tạo hành lang cung cấp lương thực và củng cố lòng tin cho nhân dân. Nhận được mệnh lệnh trên, cán bộ, chiến sĩ ta hiểu rằng thời gian tới sẽ gay go, ác liệt vì quân địch đông, quân số ta ít, vũ khí đạn dược đem theo có hạn, cung cấp sẽ không kịp thời. Song anh em rất phấn khởi vì sẽ gặp lại bà con đã từng đùm bọc, không phải sống những ngày ăn rau cháo. Có chiến sĩ còn vô tư nói hài hước rằng: “Hy sinh ở đồng bằng sướng hơn ở trên núi vì được ăn cơm no, không mất mộ, được ba má hương khói, khi hòa bình được về nằm ở cồn làng, nghe tiếng sáo diều vi vu trên đồng nội. Còn hy sinh ở trên núi, trong bụng toàn cháo rau rừng và sẽ… mất mộ”. Cán bộ nghe anh em nói mà rớt nước mắt.

P1-47
Lính Mỹ chuyển quân. Ảnh tư liệu.

          Tiểu đoàn 7 từ rừng Đồng Văn, bộ đội phải lách qua các khu vực địch phục kích ban đêm, vượt qua quốc lộ số 1, đoạn gần điểm chốt Chua Me, qua làng mạc, ra cửa biển Trường Xuân. Đồng bào dùng thuyền chở bộ đội qua sông sang Thiện Chánh, rồi hành quân khoảng 2, 3 giờ đến các khu vực giấu quân ở xã Tam Quan Nam, xã Hoài Thanh. Sau ba, bốn đêm chuyển quân căng thẳng, mạo hiểm, toàn tiểu đoàn đã triển khai lực lượng hoàn chỉnh ở vùng Đông thuộc các thôn An Thái, Chòm Rừng, Cửu Lợi, Trường Lâm (xã Hoài Thanh) và khu vực Tam Quan…

          Quân dân lại được gặp nhau sau một thời gian xa vắng thật vui mừng và cảm động. Bà con nói: “Địch nó tuyên truyền các con đang rút ra Bắc, chúng tao buồn và lo lắm, nhưng không tin. Bây giờ các con xuống đây rồi, sống chết, no đói với dân”. Các má, các chị ôm bộ đội mà khóc, rồi nhận anh em về nhà. Hầm rộng nhận bốn, năm người, hầm hẹp nhận một, hai người. Hơn bốn trăm quân của Tiểu đoàn 7 ở với dân. Bà con nấu cơm cho ăn, bảo vệ hầm bí mật. Bộ đội chỉ lĩnh phần gạo tiêu chuẩn góp với gia đình. Gần nửa năm trời cấp trên không chuyển được tiền cho tiểu đoàn. Rất may nhân dân vùng Đông vừa làm ruộng, vừa làm nghề biển, thức ăn chủ yếu là cá biển nên ít phải dùng tiền mua thức ăn.

          Trong giai đoạn này, ban ngày địch rải quân ở hầu khắp các thôn xóm, ở trên mặt đất chỉ còn người già, phụ nữ và trẻ em. Thanh niên cũng phải xuống hầm bí mật, không để bị địch bắt đi lính ngụy.

          Hàng ngày, khoảng 5 giờ sáng, bộ đội xuống hầm bí mật, bà con ngụy trang nắp hầm rồi đi làm. Buổi trưa anh em ăn cơm nắm, uống nước dừa và ngủ nghỉ suốt ngày. Buổi chiều khi địch rút về căn cứ hoặc co cụm đóng dã ngoại, bà con mở nắp hầm, anh em lên mặt đất tắm giặt, ăn cơm. Buổi tối đi trinh sát và tập kích địch; làm chủ hay không làm chủ được trận địa, khoảng 3 giờ sáng bộ đội cũng phải rút quân để giải quyết hậu quả trận đánh. Sau đó ăn cơm sáng và xuống hầm bí mật.

          Trong điều kiện sinh hoạt, tác chiến như vậy, thời gian đầu bộ đội rất căng thẳng. Mũ tai bèo, quần áo, quân phục, dép cao su phải chôn giấu hết. Anh em mặc quần áo bà ba, đi chân đất hoặc dép rọ nhựa. Ở trong hầm bí mật ít dưỡng khí, ngột ngạt và rất nóng nên chỉ mặc quần áo lót. Mọi người đều được trang bị thêm một số lựu đạn, thủ pháo để đề phòng khi hầm bị lộ sẽ xông lên chiến đấu. Nằm trong hầm không được nói chuyện to. Anh nào ngủ mà ngáy phải đánh thức dậy ngay. Đồng bào bố trí hầm bí mật ở các khu vực: dưới đường lớn, dưới sân, trong bếp, dưới chuồng lợn, dưới bụi tre và gò cát ngoài bãi biển… Hầm nhỏ chứa hai, ba người. Hầm lớn để thương binh khoảng hơn 10 người. Địch thường xuyên đi lại lùng sục, có lúc ngồi nghỉ ngay trên nắp hầm bí mật nên các chiến sĩ rất hồi hộp, căng thẳng.

P1-48
Thị trấn Hoài Nhơn bị bom đạn Mỹ phá hủy. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Qua một thời gian hoạt động hiệu quả, tháng 4-1967, Ban chỉ huy Trung đoàn 22 chỉ đạo các đơn vị hoạt động mạnh hơn ở đồng bằng. Các trận đánh của ta hầu hết tập kích địch đóng dã ngoại. Vì vậy, chúng không có hàng rào, không có hầm hào, lô cốt, nên không có điều kiện co cụm, kéo dài thời gian trận đánh. Bị tập kích bất ngờ, số địch sống sót thường tháo chạy ra hướng đường số 1 về căn cứ.

          Cho đến tháng 7-1967, các đơn vị trong Trung đoàn đã đánh gần 40 trận từ cấp tiểu đoàn đến trung đội, tiểu đội, diệt nhiều trung đội, đại đội Mỹ, ngụy ở các khu vực: bãi cát phía Đông thôn Cửu Lợi (Tam Quan Nam), Đông Trường Lâm, các thôn thuộc xã Hoài Thanh, Hoài Hương, Hoài Châu, Hoài Sơn, Hoài Hảo… thuộc huyện Hoài Nhơn.

          Với phương thức ngày giấu lực lượng, đêm lên đánh địch, các chiến sĩ ta đã gây cho địch nhiều tổn thất. Địch dao động và cay cú bởi ban ngày chúng làm chủ mặt đất, quân Giải phóng ở đâu mà ban đêm xuất hiện đánh chúng. Chúng phán đoán chỉ ở dưới lòng đất nên địch tăng cường lùng sục, xăm hầm. Chúng bắt dân tra khảo, đánh đập dã man, có nhiều chị, nhiều em giái bị chúng đổ nước xà phòng vào miệng, giậm chân lên bụng tàn bạo. Nhưng không một ai khai báo. Vì vậy, anh em cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 22 bám trụ trong lòng đất dài ngày vẫn an toàn.

          Trong đợt hoạt động, các chiến sĩ Trung đoàn 22 đã thể hiện rất rõ tinh thần bám dân, chủ động đánh địch để giữ vững và mở rộng phong trào cách mạng ở địa phương. Trận đánh có thể là quy mô tiểu đoàn, đại đội, trung đội, thậm chí là một tiểu đội, tổ ba người luồn sâu tập kích, phục kích… vào quân Mỹ, ngụy ở các điểm đóng quân dã ngoại; làm cho chúng không được rảnh tay thực hiện kế hoạch dồn dân, lập ấp chiến lược. Những trận đánh thường rất quyết liệt, một còn, một mất giữa ta với địch. Tinh thần quyết tử ấy đã thể hiện trong một trận đánh nhỏ của một tổ trinh sát Trung đoàn. Một đêm, tổ trinh sát gồm 3 đồng chí do Tiểu đội trưởng Vũ Quyền phụ trách đã tập kích một trung đội Mỹ dã ngoại ở gần nhà thờ Quy Thuận, xã Hoài Châu. Sau 5 phút, hầu hết quân dịch bị tiêu diệt. Đánh xong, 3 chiến sĩ rút về thôn Thành Sơn, xuống hầm bí mật nghỉ lại ban ngày. Sáng sớm hôm sau, lính Mỹ kéo theo bọn chỉ điểm, ác ôn ập đến Thành Sơn vây ráp, sục sạo tìm kiếm. Không may hầm của 3 chiến sĩ bị phát hiện. Địch tổ chức vòng trong vòng ngoài xiết chặt quanh miệng hầm, gọi các chiến sĩ đầu hàng. Bỗng cửa hầm bật lên, cả 3 chiến sĩ xông lên ném lựu đạn, bắn tiểu liên và chia thành ba ngả phá vây. Nhưng địch quá đông, vòng vây quá chặt, 3 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, không chịu lọt vào tay địch. Đêm hôm ấy, bà con Thành Sơn đã chôn giấu thi hài của đồng chí Vũ Quyền* và 2 chiến sĩ, không để cho địch biết.

P1-49
Trực thăng của Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 Mỹ hạ cánh xuống Bồng Sơn. Ảnh tư liệu.

          Trên hướng Trung đoàn 2 và Trung đoàn 12 cũng hoạt động rất hiệu quả ở huyện Phù Mỹ, Phù Cát.

          Trên toàn địa bàn tỉnh Bình Định, chỉ trong khoảng nửa tháng, quân bảo an, dân vệ, ác ôn, chỉ điểm và ấp chiến lược của địch bị quét đi từng mảng. Nhiều xã, thôn mới giải phóng lập tức được củng cố, xây dựng chính quyền, thành lập tiểu đội, trung đội du kích, các tổ công tác tuyên truyền, địch vận… Có nhiều nơi, du kích xã cũng đảm nhiệm được một hướng, một mũi đánh quân bảo an, dân vệ, để bộ đội chủ lực ta tập trung đánh quân lính cộng hòa.

          Giữa mùa Thu năm 1967, Trung đoàn 22 được bổ sung thêm tân binh và trang bị, vũ khí từ miền Bắc chuyển vào. Đồng thời có chỉ thị của trên tích cực trụ bám, đánh địch ban ngày ở đồng bằng để phối hợp với chiến trường toàn tỉnh Bình Định.

          Hoảng hốt trước sự xuất hiện của Sư đoàn Sao Vàng giữa đồng bằng, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ vội vàng ra lệnh cho quân Mỹ kết thúc sớm cuộc càn quét ở hai bên bờ sông H’re (phía Tây Quảng Ngãi), kéo về đối phó ở Bình Định, mặc dù lúc đó Sư đoàn Sao Vàng chưa tổ chức một trận đánh lớn nào.

          Giảm hẳn lòng tin vào sự chi viện của quân Mỹ, bọn ngụy quân, ngụy quyền ở Bắc tỉnh Bình Định trở nên lúng túng, bị động. Chớp thời cơ, Sư đoàn chủ trương dùng Đại đội đặc công, một bộ phận Trung đoàn 12 cùng với địa phương tiến công quận lỵ Phù Mỹ. Sau hai tiếng đồng hồ, các chiến sĩ Trung đoàn 12 đã đánh bật tất cả các ổ đề kháng của địch, làm chủ quận lỵ một đêm và tiêu diệt hầu hết bọn tề điệp ở các xã Mỹ Tài, Mỹ Thọ. Sự kiện này đã gây chấn động lớn ở vùng đồng bằng ven biển Bình Định. Nhiều nơi vừa nghe tin bộ đội Sao Vàng đã về, bọn ngụy quân, ngụy quyền đã vội vã tháo chạy.

          Hiệp đồng chặt chẽ với hướng Nam, các chiến sĩ Trung đoàn 22, trong đêm 17-8 cũng tiến công bảy vị trí quanh thị trấn Bồng Sơn, Tam Quan và tiếp tục trụ lại ở Đông đường (khu vực xã Hoài Thanh, Hoài Hương) vừa đánh địch vừa phát động quần chúng.

          Thời gian này, tổ chức được một đợt tiến công vào sào huyệt địch rất công phu. Từ việc chuẩn bị chiến trường, đường hành quân đến việc giấu quân đều phải tính toán hết sức chi ly, chính xác. Đưa một tiểu đoàn chủ lực vào sát căn cứ địch, giữa một hệ thống đồn bốt dày đặc, bịt mắt được một mạng lưới tề điệp nhung nhúc của địch không phải là một điều đơn giản.

          Phải dựa vào dân và chỉ có nhân dân mới làm được công việc ấy. Nhân dân phát hiện bọn tề điệp, nhân dân đi trinh sát, dẫn đường, nhân dân che giấu bộ đội.

P1-50
Các chiến sĩ thông tin làm nhiệm vụ. Ảnh tư liệu.

          Do tạo được thế đứng ở đồng bằng, mọi hoạt động của Sư đoàn dần dần chuyển sang thế chủ động. Thắng lợi cơ bản của Sư đoàn trong mùa Thu năm 1967 là đã tạo được bàn đạp ngay trong lòng địch. Nhờ có dân, biết dựa vào sức dân, Sư đoàn đã vượt qua những khó khăn tưởng chừng như không thể nào vượt qua nổi. Ngược lại, nhờ có sự hoạt động của Sư đoàn, phong trào địa phương cũng phát triển lên một bước mới. Hàng loạt các thôn xã ở các huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát… đã giữ được phong trào. Thời cơ chuẩn bị cho những trận đánh tập trung lớn hơn, tiêu diệt sinh lực địch nhiều hơn đã mở ra trước mắt Sư đoàn.

          Cuối mùa Đông năm 1967, trên chiến trường toàn miền, chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ đã bị thất bại thêm một bước nghiêm trọng. Ở miền Bắc, đế quốc Mỹ vẫn đang ra sức đẩy cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân lên những nấc thang mới, nhưng chúng vẫn không xoay chuyển được tình thế.

          Tháng 12-1967, Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết định động viên những nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền Nam – Bắc, đưa cách mạng miền Nam lên bước phát triển mới bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt vào mùa Xuân năm l968.

          Ở Khu 5, quyết tâm thực hiện chủ trương nói trên, Khu ủy và Quân khu ủy chủ trương sử dụng cả ba thứ quân tiến công liên tục, mạnh mẽ cả Xuân và Hè 1968, đánh sập ngụy quân, ngụy quyền, tiêu diệt nặng sinh lực Mỹ, kết hợp với những cuộc nổi dậy rộng khắp và quyết liệt của quần chúng, giành chính quyền về tay nhân dân.

          Sư đoàn Sao Vàng, mặc dù đang gặp rất nhiều khó khăn, vẫn xác định tháng 12-1967 phải là tháng chuyển biến mạnh mẽ về tình hình đơn vị và địa bàn hoạt động vùng sâu. Một đợt sinh hoạt chính trị sôi nổi được tổ chức trong toàn Sư đoàn.

          Kết hợp với Sư đoàn Sao Vàng, Tỉnh ủy và Tỉnh đội Bình Định cũng tích cực chỉ đạo củng cố lực lượng vũ trang và các tổ chức quần chúng, chuẩn bị vũ khí, chờ ngày xuống đường đấu tranh, diệt ngụy, cô lập Mỹ. Không khí chuẩn bị náo nức như sắp bước vào ngày hội lớn.

          Thời gian đó, ở phía Bắc Bình Định, Trung đoàn 22 vẫn cùng các lực lượng địa phương bám chắc địa bàn Đông Hoài Nhơn. Ngày 13-12, bọn địch ở thị trấn Tam Quan bị tiến công chỉ sau 30 phút, 20 tên ác ôn khét tiếng bị tiêu diệt cùng với hai trung đội dân vệ. Nhà tù thị trấn bị phá vỡ, 600 đồng bào, cán bộ bị giam cầm được giải phóng. Địch đưa một tiểu đoàn Mỹ đến giải tỏa. Tiểu đoàn này đã bị Trung đoàn 22 đánh thiệt hại nặng.

          Địch tiếp tục bổ sung quân củng cố thế bố trí ở thị trấn Tam Quan, Đồi 9, Đồi 10, sau đó tung lực lượng đi càn quét, giải tỏa. Gần 20 ngày cuối tháng 12, ngày nào Tiểu đoàn 7 cũng nổ súng đánh địch, trong đó có trận ở thôn Trường Lâm là gay go nhất. Sáng hôm ấy, sau những đợt bom, pháo ác liệt, một trung đội Mỹ mò vào thôn thăm dò. Các chiến sĩ Đại đội 72 để địch vào đến 7 mét mới nổ súng diệt gọn trung đội này. Địch đổ thêm 1 tiểu đoàn nữa. Hai tiểu đoàn Mỹ có xe tăng kết hợp tấn công suốt ngày vẫn không chiếm được một khu vực nào trong thôn. Sang ngày thứ hai, trực thăng đổ 1 đại đội Mỹ chiếm đồi Ông A. Từ trên đồi, địch tấn công xuống Đại đội 71. Các chiến sĩ ta bám chắc công sự, bẻ gãy các đợt tấn công của chúng. Trên hướng Đại đội 72, 73, hai tiểu đoàn Mỹ dựa vào quân số đông tấn công ồ ạt, nhưng đều bị các chiến sĩ ta chặn đánh quyết liệt, để lại trước trận địa hàng trăm xác và một số xe tăng bị bắn cháy.

          Buổi chiều, sau nhiều đợt bom pháo bắn phá dữ dội, địch tấn công trên toàn trận địa tiểu đoàn. Đại đội Mỹ từ đồi Ông A tấn công xuống phá vỡ tuyến phòng ngự của Đại đội 71. Xạ thủ B40 bị thương, Đại đội trưởng Tâm dùng súng B40 bắn cháy xe tăng. Ngay lúc đó, Đại đội 73 đánh tạt sang chi viện kịp thời khiến địch phải chạy lên đồi Ông A, gọi bom, pháo bắn ngăn chặn lực lượng ta. Khoảng 5 giờ chiều, trận đánh kết thúc. Tiểu đoàn 7 đã đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn Mỹ, bắn cháy 5 xe tăng.

          Tối hôm đó, địch tăng cường lực lượng bao vây thôn Trường Lâm. Nhưng đến 10 giờ đêm, trinh sát dẫn Tiểu đoàn vượt qua sườn đồi Ông A rút ra ngoài vòng vây an toàn. Trên đường đi, anh em ta phải bước qua những xác lính Mỹ chưa kịp bốc đi. Đến khoảng 1 giờ sáng, thuyền của dân chở bộ đội qua sông sang địa phận xã Hoài Mỹ, đóng quân ở khu rừng Định Bường để củng cố. Trung đoàn khen ngợi Tiểu đoàn 7 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, và chỉ thị tiếp cho Tiểu đoàn khẩn trương tổ chức cho anh em ăn Tết năm 1968 trước 10 ngày. Ăn Tết xong, Trung đoàn lệnh cho Tiểu đoàn 7 hành quân sang huyện Phù Mỹ chuẩn bị tác chiến trong chiến dịch lớn của mặt trận.

          Vào giáp Tết nguyên đán năm Mậu Thân (1968), Mặt trận Bình Định được thành lập. Đồng chí Đoàn Khuê, Phó Chính ủy Quân khu 5 được cử làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Trong Bộ chỉ huy Mặt trận còn có các đồng chí Chỉ huy Sư đoàn, Thường vụ Tỉnh ủy và Tỉnh đội Bình Định.

          Phương án chuẩn bị lực lượng đấu tranh chính trị trong đợt Tổng tiến công này khá chặt chẽ. Các Tỉnh ủy viên là nữ hầu hết được điều vào tăng cường cho thị xã Quy Nhơn. Ở những vùng có phong trào mạnh như Hoài Nhơn, Phù Mỹ và một số nơi khác, lực lượng quần chúng được tổ chức thành từng đội quân. Cứ 100 người thành lập một đại đội, 500 người thành lập một cụm. Đội quân chính trị lớn lao này từ những ngày trước tháng 12 đã được trang bị gậy gộc, dao, liềm, băng, cờ, khẩu hiệu, truyền đơn, lời kêu gọi… Làm nòng cốt cho lực lượng trên là tiểu đoàn đặc công và hai tiểu đoàn của tỉnh.

          Do tính chất của nhiệm vụ, Mặt trận và Bộ lư lệnh Sư đoàn sử dụng Trung đoàn 22 và Trung đoàn 2 vào khu vực huyện Phù Mỹ, Trung đoàn 12 đánh vòng ngoài, hỗ trợ cho 3 tiểu đoàn của tỉnh và các lực lượng chính trị của quần chúng ở phần Nam tỉnh, tiến công và nổi dậy trong thị xã Quy Nhơn. Nhiệm vụ xuyên suốt của Sư đoàn trong quá trình tiến công và nổi dậy là phải kéo, kìm, diệt chủ lực cơ động ngụy, cô lập quân Mỹ và Nam Triều Tiên, kìm hãm chúng tại các căn cứ lớn.

          Phương án chung của Mặt trận Bình Định là:

          – Tiến công kết hợp với nổi dậy ở hai khu vực chính Quy Nhơn và Hoài Nhơn.

          – Tiến công quân sự giải phóng quận Phù Mỹ, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giải phóng nông thôn và sẵn sàng nhập thị.

          Không khí chuẩn bị khẩn trương, sôi động ở khắp mọi nơi. Chưa có mùa xuân nào, chiến dịch nào trước đó mà không khí chuẩn bị ra quân lại rạo rực, đầy tin tưởng như mùa xuân năm ấy. Bấy giờ Trung đoàn 22 đang hoạt động ở hai địa bàn khá xa mục tiêu nổ súng. Đó là Nam tỉnh Quảng Ngãi và phía Đông Bắc tỉnh Bình Định.

          Ngày 25-1-1968, lệnh Tổng tiến công và nổi dậy được phổ biến tới các Trung đoàn, các đơn vị trực thuộc và các thôn, xã. Một cuộc hành quân cấp tốc diễn ra với Trung đoàn 22. Từ Nam Quảng Ngãi và Đông Hoài Nhơn, Trung đoàn chia làm hai đường tiến về Phù Mỹ. Một cánh đi từ trên núi xuống, một cánh khác đi dọc bờ biển vào. Nhưng vì phải luồn lách qua nhiều vị trí địch, Trung đoàn 22, trừ Tiểu đoàn ở Hoài Nhơn, đã không đến kịp ngày nổ súng. Trong khi đó, theo đúng hợp đồng và mệnh lệnh, các chiến sĩ Trung đoàn 2 do Trung đoàn trưởng Trần Trọng Sơn và Chính ủy Lê Huẩn chỉ huy đã vào tới vị trí chiếm lĩnh, chuẩn bị nổ súng tiêu diệt quận lỵ Phù Mỹ.

          Tháng 2-1968, toàn Trung đoàn 22 đứng chân ở khu rừng phía Tây Nam huyện Hoài Ân, giáp huyện Phù Mỹ. Sau nửa tháng chuẩn bị chiến trường, toàn Trung đoàn bước vào chiến dịch đánh “bồi” sau Tết Mậu Thân. Thực hiện chủ trương mở rộng và khai thông vùng giáp ranh từ trên núi xuống đồng bằng, tạo hành lang vận chuyển lương thực từ đồng bằng lên núi, Ban Chỉ huy Trung đoàn 22 quyết định giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 7 đánh địch ở khu vực suối Son.

          Tiểu đoàn 7 triển khai lực lượng để đánh vận động kết hợp độn thổ ở khu vực suối Son, phía Tây huyện lỵ Phù Mỹ, tiêu diệt một đại đội lính cộng hòa thường càn quét ở khu vực này. Tiểu đoàn sử dụng Đại đội 71 giấu quân trong một làng bỏ hoang, Đại đội 72, 73 giấu quân trong bìa rừng ở gần suối Son. Sáng hôm ấy, theo quy luật, một đại đội lính cộng hòa từ quận lỵ vượt qua đường số 1 tiến vào làng lùng sục. Khoảng 8 giờ, địch vào đến giữa làng, các chiến sĩ Đại đội 71 từ trong các hầm bỏ hoang bất ngờ xông ra nổ súng diệt một số tên địch. Địch hoảng loạn tháo chạy, sau đó cụm lại chống cự ta quyết liệt. Khi nghe Đại đội 71 nổ súng, Tiểu đoàn trưởng Tạ Ngọc Bình và trinh sát dẫn hai đại đội nhanh chóng vận động trong lòng suối Son ra làng hoang. Từ làng hoang, Đại đội 72 vu hồi từ phía Nam đánh lên, Đại đội 73 từ phía Bắc đánh xuống. Bọn địch đang tập trung đối phó với Đại đội 71, không ngờ còn lực lượng bên ngoài đánh vào, khiến chúng không kịp trở tay… Chỉ còn khoảng 10 tên thoát chết vượt qua cánh đồng chạy lên đường số 1. Khoảng 30 phút sau, địch sử dụng 2 đại đội bộ binh, 6 xe bọc thép M113 và 2 trực thăng vũ trang lên bắn phá dữ dội để giải tỏa lấy xác. Tiểu đoàn đã rút về vị trí đóng quân an toàn. Ta diệt gọn 1 đại đội lính cộng hòa.

          Ở các hướng, Trung đoàn 2 và Trung đoàn 22 cũng hoạt động mạnh, tiêu diệt và khống chế, giam chân quân chủ lực địch.

          Kết hợp với lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị của tỉnh bao gồm mọi tầng lớp nhân dân mà đội quân tóc dài làm xung kích đã nổi dậy áp đảo địch ở hầu hết các thị trấn, quận lỵ. Gần ba vạn đồng bào ở Hoài Nhơn kéo đến bao vây thị trấn Tam Quan, thị trấn Bồng Sơn, Đồi 10. Hàng ngàn các mẹ, các chị ở Phù Mỹ đã mang gậy tre, dao, liềm vào đánh đuổi bọn lính bảo an, dân vệ ở nhiều đồn và ấp chiến lược thuộc xã Mỹ Đức, Mỹ Lợi. Hàng vạn đồng bào các huyện Phù Cát, Bình Khê, Vĩnh Thạnh, An Nhơn… sôi sục xuống đường đấu tranh đòi lật đồ chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu, đòi Mỹ không được can thiệp vào công việc của người Việt Nam.

P1-51
Lính Mỹ bị thương vong. Ảnh tư liệu.

          Trên toàn miền, quân và dân ta đã nổi dậy, tiến công vào hầu hết các thành phố, thị xã, căn cứ của Mỹ, ngụy. Những tin tức chiến thắng trên toàn miền làm nức lòng quân dân Bình Định và chiến sĩ Trung đoàn 22, Sư đoàn Sao Vàng.

          Trong những ngày sôi động đó, khi Sư đoàn 22 ngụy và Sư đoàn “Mãnh Hổ” Nam Triều Tiên đang bị kèm chặt ở khu vực của hai Trung đoàn 2 và 12 thì ở vùng giáp ranh, quân Mỹ mở một cuộc phản kích nhằm co kéo lực lượng của Sư đoàn Sao Vàng ra khỏi các vành đai bao quanh các thị trấn, thị xã.

          Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Sư đoàn quyết định đưa lực lượng dự bị (Trung đoàn 22) vào chiến đấu. Nhận lệnh trên, Ban Chỉ huy Trung đoàn 22 quyết định tổ chức 1 trận tập kích quân Mỹ ở khu vực ấp Diêm Tiêu, huyện Phù Mỹ. Trung đoàn đã tập trung tất cả những xạ thủ B40 xuất sắc của Trung đoàn và chọn ba đại đội bộ binh có kinh nghiệm vào trận đánh.

          03 giờ sáng ngày 8-03, những quả đạn B40 bất ngờ nổ đồng loạt vào những chiếc xe tăng Mỹ ở khu vực ấp Diêm Tiêu cách quận lỵ Phù Mỹ bốn kilômét. Ngay loạt đạn đầu, 4 chiếc xe đã bốc cháy. Đạn B40 vừa nổ, bộ binh đã ập tới, chia cắt bộ binh địch để tiêu diệt. Chỉ hơn một giờ, toàn bộ chi đoàn xe bọc thép và một đạị đội lính Mỹ đã bị các chiến sĩ Trung đoàn 22 diệt gọn. Cùng với các đơn vị trong Sư đoàn, chiến thắng Diêm Tiêu của Trung đoàn 22 đã góp phần tích cực làm thay đổi nhanh chóng cục diện chiến tranh trên chiến trường Bình Định.

———-

          * Sau giải phóng, hài cốt của đồng chí Vũ Quyền đã được chính quyền địa phương và gia đình chuyển về an tang tại Nghĩa trang Liệt sĩ xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

 10THAM GIA ĐÁNH QỤY LỮ ĐOÀN KHÔNG VẬN 173 MỸ

P1-52
Các chiến sĩ tấn công địch. Ảnh tư liệu.

          Đến mùa hè năm 1968, chiến trường Bình Định vẫn nóng bỏng. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trong mùa xuân, những cuộc thay quân, điều chỉnh lại lực lượng của bọn xâm lược Mỹ đã diễn ra ở khắp nơi. Sư đoàn Kỵ binh số 1 Mỹ bị đánh giập đầu ở Bình Định phải điều gấp ra ứng cứu chiến trường Trị Thiên. Thế chân Sư đoàn này là Lữ đoàn Không vận 173 (173rd Airborne Brigade) Mỹ điều từ Phú Yên ra. Lữ đoàn Không vận 173 Mỹ có hàng trăm máy bay trực thăng các loại dùng làm phương tiện vận chuyển quân, vũ khí và trang thiết bị quân sự, nên được gọi là lực lượng phản ứng nhanh. Ngoài ra, Lữ đoàn còn có khoảng 100 xe tăng và xe bọc thép, là một trong những đơn vị có sức đột kích mạnh trên chiến trường miền Trung lúc bấy giờ.

P1-53
Một phi đội của Lữ đoàn không vận 173 Mỹ. Ảnh tư liệu.

          Vừa đặt chân tới đất Bình Định, Lữ đoàn Không vận 173 Mỹ tổ chức ngay những cuộc hành quân nống lấn, càn quét trên một quy mô lớn. Tên đại tá lữ đoàn trưởng thường tuyên bố một cách ngạo mạn rằng, những gì lính “kỵ binh bay” trước đây không làm được thì lính “nhà trời” sẽ làm được. Kết hợp với chiến thuật thiết xa vận ném hàng chục, hàng trăm xe tăng, xe bọc thép vào các cuộc càn quét, cày ủi. Bọn bộ binh địch gồm lính của Sư đoàn 22 ngụy, Sư đoàn “Mãnh Hổ” Nam Triều Tiên đã rải quân đóng chốt khắp các điểm cao, dọc các đường mòn vùng giáp ranh phía Tây, các vùng đồng nước và vùng ven biển.

          Những trận phản kích diễn ra dữ đội từ tháng 3 cho đến tháng 5, nhưng đó chỉ là biện pháp nhằm đối phó với các cuộc tiến công của ta vào các thị xã, thị trấn. Theo chỉ thị của Quân khu, cách đánh tốt nhất đối với chiến thuật thiết xa vận của Lữ đoàn Không vận 173 là phải “điều chúng ra tương đối xa thành phố, thị xã, tìm cách chặn chúng lại, vây chặt bằng các hình thức phục kích vận động, vận động tiến công và tập kích diệt từng tiểu đoàn, tiến tới đánh qụy cả lữ đoàn của nó”.

          Thực hiện chủ trương trên, Sư đoàn Sao Vàng dành một tháng cho hai Trung đoàn 22 và  2 dừng lại tổ chức, củng cố lực lượng, chuẩn bị cho những trận đánh lớn.

          Một phong trào đăng ký “Đại đội tình nguyện diệt xe”, “Tổ tình nguyện diệt xe”, những cá nhân hăm hở xin nhận B40, chai cháy, thủ pháo diệt xe tăng lan rộng khắp các đơn vị. Cán bộ, chiến sĩ gặp nhau là bàn cách diệt xe cơ giới.

          Với truyền thống phá hủy và bắt sống xe tăng địch ở An Lão (năm 1964), Đèo Nhông (năm 1965) và trận tập kích diệt cả một cụm xe bọc thép ở Diêm Tiêu, cách đánh xe bọc thép Mỹ vẫn còn là một vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu đối với các chiến sĩ Sư đoàn Sao Vàng. Bên cạnh những khó khăn về chiến thuật, còn một khó khăn không kém phần quan trọng, đó là quân số và vũ khí. Từ trước đến nay, vũ khí đánh tăng của Sư đoàn lớn nhất là ĐKZ, nhỏ là AT và thủ pháo tự tạo. Súng B40 mỗi Đại đội chỉ có vài ba khẩu với một số đạn rất ít ỏi, B41 cả Sư đoàn mới được trang bị năm khẩu.

          Cũng như thời kỳ lính “kỵ binh bay” xuất hiện, một câu hỏi được đặt ra cho chiến sĩ ta là: với thực lực hiện nay liệu có thể diệt gọn được đơn vị xe bọc thép Mỹ không? Trận đánh Diêm Tiêu mới đây của Trung đoàn 22 là một kinh nghiệm nóng hổi, nhưng đó mới chỉ là trận tập kích xe “chết” ban đêm. Từ đó, làm sao có thể rút được kinh nghiệm đánh xe bọc thép cơ động ban ngày. Câu hỏi ấy đã trở đi trở lại trong các cuộc họp của Bộ tư lệnh Sư đoàn, trong các Hội nghị quân chính Trung đoàn, các cuộc họp của chi bộ, chi đoàn đại đội.

          Cuối cùng, phương án tác chiến đã được xác định. Hai Trung đoàn 22 và 2 sẽ mở đợt hoạt động tại khu vực ba xã Mỹ Lộc, Mỹ Trinh, Ân Tường, nơi tiếp giáp hai huyện Phù Mỹ với Hoài Ân. Sư đoàn chủ trương bố trí các bộ phận chặn đầu, vận động tiến công bên sườn, khóa đuôi nhiều lớp khép kín đội hình địch, diệt nhanh, gọn và chắc từng chi đoàn xe bọc thép địch.

          Ngày 3-5, Sư đoàn trưởng Lư Giang cùng với Chính ủy Sư đoàn Nguyễn Nam Khánh đưa Sở chỉ huy tới khu vực Hòn Nọc để theo dõi và chỉ huy chung cả hai hướng Nam và Bắc tỉnh. Sở chỉ huy tiền phương đặt sát đội hình Trung đoàn 2 do Phó Sư đoàn trưởng Huỳnh Hữu Anh và Phó Tham mưu trưởng Sơn Diệp phụ trách.

          0 giờ 30 phút ngày 5-5, phốỉ hợp với chiến trường toàn Quân khu, cùng một lúc, các đơn vị đặc công, công binh, pháo binh của Sư đoàn tiến công tám cứ điểm và căn cứ, trận địa pháo địch trên trục đường số 1. Một đoạn đường dài hơn mười kilômét từ cầu Ông Diệu qua Bình Dương, Đèo Nhông đến giáp quận lỵ Phù Mỹ hoàn toàn bị cắt đứt, buộc Bộ chỉ huy quân Mỹ ở Bình Định phải tung Lữ đoàn Không vận 173 đi giải tỏa.

          Tờ mờ sáng, từng bầy xe tăng, xe bọc thép từ quận lỵ Phù Mỹ xồng xộc thọc lên. Trên trời, từng bầy trực thăng bay sát các ngọn cây, cánh quạt khua ầm ĩ. Phía sau đoàn xe là bộ binh Mỹ.

          Trong các công sự, các chiến sĩ Trung đoàn 2 bình tĩnh chờ địch. Sở chỉ huy Sư đoàn, Trung đoàn luôn thông báo về tình hình địch cho các đơn vị.

          … Hơn 12 giờ trận đánh mới diễn ra, ta đã tiêu diệt 11 xe tăng địch.

          Địch cụm lại trong đêm trên trận địa là thời cơ rất thuận lợi cho ta tiêu diệt. Sư đoàn quyết định sử dụng sáu đại đội mạnh nhất của Trung đoàn 22 và Trung đoàn 2 vào trận tập kích này.

          3 giờ 30 phút ngày 6, hai phát pháo hiệu đỏ vọt lên không trung. Sau đó là một loạt tiếng nổ. Trong ánh chớp của lựu đạn và ánh đèn, bóng các chiến sĩ xung kích loang loáng lao về phía địch. Cối 60, cối 82, súng máy từ các hướng nổ giòn vào đoàn xe tăng địch đậu từng cụm trên bờ một con suối cạn giữa cánh đồng. Gần một chục khối lửa khổng lồ bùng lên. Giữa lúc các mũi xung kích đang phát triển thuận lợi thì một cụm hỏa lực địch rất hiểm hóc xuất hiện ở góc một vườn dừa bắn xả về hướng Tiểu đoàn 3. Thì ra trong lúc nhá nhem tối, một số xe tăng địch đã di chuyển đội hình, ngụy trang kín, khiến các chiến sĩ trinh sát không phát hiện được hết. Bây giờ, chúng trở thành những ổ đề kháng hết sức lợi hại.

          Ở hướng Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 22, các chiến sĩ lợi dụng con mương cạn luồn được vào giữa cụm xe thứ hai. Phó Đại đội trưởng Đinh Văn Nho trực tiếp bắn quả B40 đầu tiên, diệt một xe tăng làm hiệu lệnh. Vài phút sau, những tiếng nổ tiếp theo, ba chiếc khác bốc cháy, lửa hút lên trời đỏ rực. Bị đánh thốc từ bên trong, bọn địch hốt hoảng quay nòng súng bắn vào nhau. Lợi dụng tình thế đó, từ bên ngoài, các chiến sĩ đánh thốc vào diệt thêm năm chiếc khác. Nhưng đạn B40 đã hết, Nho ra lệnh tập trung lựu đạn, chai cháy lại đánh tiếp.

          Hướng Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 2 cũng lâm vào tình trạng thiếu đạn tương tự. Sau khi phá tan được những ổ đề kháng trong vườn dừa, các chiến sĩ dùng chai cháy và thủ pháo diệt thêm ba chiếc xe tăng nữa thì Sở chỉ huy Trung đoàn ra lệnh rút.

          Trận tập kích diệt 21 xe tăng và xe bọc thép đêm mồng 5 rạng ngày 6-5 cộng với 11 chiếc bị tiêu diệt ban ngày đã giáng đòn phủ đầu đích đáng vào Lữ đoàn Không vận 173 Mỹ. Trong vòng 18 tiếng đồng hồ, kể từ 11 giờ trưa ngày 5 đến 5 giờ sáng ngày 6 đã có 32 xe tăng, xe thiết giáp địch bị tiêu diệt, trong đó có hai chiếc bị bắt sống. Ba đại đội cơ giới cùng với hai đại đội bộ binh Mỹ khác bị loại khỏi vòng chiến đấu.

          Sau trận đánh, Sư đoàn chủ trương giãn đội hình lui về hướng Mỹ Trinh. Trung đoàn 2 chuẩn bị đánh trận thứ hai. Trung đoàn 22 vẫn đứng ở khu vực Ân Tường để đánh địch giải tỏa.

P1-54
Rừng dừa Hoài Nhơn bị bom đạn Mỹ tàn phá. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Đột ngột tiến công như gió bão, rồi lại đột ngột mất hút khỏi khu vực chiến đấu, các chiến sĩ ta đã làm cho Lữ đoàn không vận 173 Mỹ hết sức hoang mang. Chúng cho biệt kích sục vào núi, dùng trực thăng đổ thám báo trên các điểm cao, nhưng vẫn không tìm thấy dấu vết của đại quân ta, trừ một vài cuộc đụng độ nhỏ với một vài mũi phục kích của Trung đoàn 22 bố trí từ trước.

          Sau mấy ngày hoang mang dừng lại, Lữ đoàn không vận 173 tiếp tục thăm dò, nhằm trả đũa bằng một trận quyết liệt hơn. Ngày 9, chúng bị Trung đoàn 22 chặn đánh, bắn cháy hai xe bọc thép, diệt 80 tên Mỹ ở Ân Tường. Sau đó, Trung đoàn 22 được lệnh di chuyển đội hình về phía Mỹ Trinh để nhử địch. Lập tức, Lữ đoàn không vận 173 cuốn ngay sang Mỹ Trinh, hòng “vét một mẻ lưới từ ven núi xuống tận đường số 1, xem đối phương có còn sức tiến công nữa hay không?” như lời tên Đại tá Lữ đoàn trưởng tuyên bố.

P1-55
Vùng giải phóng tỉnh Bình Định bị máy bay Mỹ ném bom tàn phá. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Sáng ngày 10-5, một đoàn xe thiết giáp 22 chiếc của Lữ đoàn không vận 173 từ Đèo Nhông ầm ầm tiến về phía cánh đồng Trịnh Vân, nơi các chiến sĩ Trung đoàn 2 đang bố trí trận địa. Sau nửa giờ lùng sục không có kết quả, lính Mỹ vào các bụi cây, căng bạt tránh nắng.

          Đúng 12 giờ trưa, tiếng súng của các chiến sĩ Trung đoàn 2 nổ giòn giã vào các cụm xe tăng địch. Ngay từ loạt đạn đầu, Tiểu đoàn 3 bắn cháy 5 xe, Tiểu đoàn 2 bắn cháy 4 chiếc khác. Bị đánh bất ngờ, địch vừa phản ứng vừa hốt hoảng tháo chạy, nhưng đã bị Tiểu đoàn 1 chặn đường, bắn cháy thêm hai chiếc nữa.

          Bẵng đi một tuần, không thấy địch mon men đến khu vực tác chiến, Bộ tư lệnh Sư đoàn nhận định: Đây là lúc chúng dừng lại củng cố và tìm thủ đoạn mới. Vì chỉ hơn mười ngày chúng bị mất gần 50 xe tăng, xe bọc thép, chiếm gần một nửa tổng số xe của toàn lữ đoàn. Để kéo địch ra, Sư đoàn chủ trương dùng hỏa lực tiếp tục ép địch ở các căn cứ quận lỵ, chi khu, không cho chúng nghỉ ngơi, tính toán mà phải tung tiếp xe bọc thép và xe tăng đi giải toả.

          Sáng ngày 23-5, cối 82, cối 120 của Sư đoàn bất ngờ tập kích vào các trận địa pháo Đèo Nhông, Mồ Côi, Gò Loi… Đồng thời, một số phân đội đặc công kết hợp với lực lượng địa phương tiến công địch trong các ấp chiến lược và những chốt lẻ ở Tây và Tây – Bắc quận lỵ Phù Mỹ. Đúng như ta nhận định, sau các trận đánh bất ngờ của ta, địch buộc phải tung Lữ đoàn không vận 173 đi giải toả. Thế là một lần nữa, Sư đoàn Sao Vàng lại “điều” địch từ các căn cứ ở đồng bằng lên vùng giáp ranh để tiêu diệt.

          7 giờ sáng ngày 25, một đoàn xe tăng và xe bọc thép gồm 36 chiếc thuộc Lữ đoàn không vận 173 và một chi đoàn thiết giáp của Trung đoàn 40 ngụy mở cuộc hành quân giải tỏa hỗn hợp lên phía Tây quận lỵ Phù Mỹ. Khi đến cánh đồng thôn Trịnh Vân, xã Mỹ Trinh, chúng thận trọng tiến theo đội hình chữ U và nham hiểm bắt dân đi hai bên. Sư đoàn lệnh cho các đơn vị bí mật xuất kích. Đặc bịệt, hai đại đội khóa đuôi phải khép đội hình thật kín không cho chúng chạy thoát.

          Lệnh nổ súng phát ra, Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 2) lợi dụng gò, bãi lao thẳng vào đội hình xe địch. Một cuộc hỗn chiến diễn ra trên cánh đồng nắng cháy. Cho tới tận chiều tối, đoàn xe địch mới rải rác chạy về được đường số 1. Lúc đi, 36 chiếc ầm ầm kéo bụi hàng kilômét, khi về, vẻn vẹn còn 10 chiếc mang đầy thương tích với những tên lính bộ binh sống sót không dám ngoái cổ nhìn lại.

          Cũng như những trận đánh phủ đầu Sư đoàn Kỵ binh số 1 Mỹ trước đây, những trận đánh phủ đầu Lữ đoàn Không vận 173 Mỹ ở Mỹ Lộc, Mỹ Trinh mùa hè năm 1968 đã mở ra khả năng đánh bại thủ đoạn dùng xe tăng làm xung kích của Mỹ. Thật vậy, hiếm có những trận đánh nào lại trọn vẹn như hai trận tiêu diệt xe tăng của Lữ đoàn 173 Mỹ, 76 xe bị diệt trong tổng số 100 chiếc, các chiến sĩ Sư đoàn Sao Vàng đã đánh bại chiến thuật “thiết xa vận” của Lữ đoàn “con cưng” này trên địa bàn hoạt động của mình.

          Gần ba năm đã trôi qua, kể từ ngày những tên lính của Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 Mỹ bị tiêu diệt ở Bồng Sơn, Chợ Cát đến những chiếc xe bọc thép của Lữ đoàn Không vận 173 bị tiêu diệt ở Diêm Tiêu, trên cánh đồng Mỹ Trinh, Mỹ Lộc, các chiến sĩ Trung đoàn 22 đã có nhũng bước trưởng thành vượt bậc.

 11MÙA THU 1968 THAM GIA CHIẾN DỊCH X2

P1-56
Các chiến sĩ hành quân tham gia Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Sau khi đánh qụy chiến thuật “thiết xa vận” của Lữ đoàn Không vận 173 Mỹ ở Bình Định, tháng 6-1968, Trung đoàn 22, Trung đoàn 2 và các đơn vị trực thuộc được lệnh hành quân cấp tốc ra Quảng Ngãi, tham gia chiến dịch X.2 của Quân khu. Sư đoàn có nhiệm vụ đánh thiệt hại Sư đoàn 2 ngụy ở vùng Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, kìm chân Lữ đoàn 11, Sư đoàn Americơn ở vùng Mộ Đức, Đức Phổ và giải phóng quận lỵ Sơn Hà, một quận lỵ miền núi tương tự như quận lỵ Minh Long. Riêng Trung đoàn 12 vẫn hoạt động ở phía Nam tỉnh Bình Định.

          Mở chiến dịch lớn trên địa bàn toàn Quân khu mùa thu năm 1968, Bộ tư lệnh Quân khu chủ trương đánh vào biện pháp chiến lược “quét và giữ” của Mỹ. Sau những thất bại thảm hại trong đợt Tổng tiến công mùa Xuân của quân dân miền Nam, tướng Oétmolen đã bị Giônxơn cách chức và chiến lược “tìm diệt” của y đã được thay thế bằng “quét và giữ” cùng với một viên tổng chỉ huy mới là tướng Abơram.

P1-57
Trực thăng của Mỹ bị các chiến sĩ bắn rơi. Ảnh tư liệu.

          Thời gian này, Sư đoàn Sao Vàng đã được bổ sung vũ khí, trang bị và hơn một ngàn chiến sĩ mới từ miền Bắc vào. Đây là đợt bổ sung quân số, vũ khí lớn đầu tiên kể từ ngày thành lập Sư đoàn.

          Trước đợt bổ sung quân số, trang bị kể trên, chấp hành chỉ thị của Bộ tư lệnh Quân khu, Sư đoàn đã thành lập xong Tiểu đoàn đặc công 40. Trung đoàn 22 cũng như các trung đoàn khác thành lập đại đội đặc công và đã tranh thủ cho bộ đội tập luyện chiến thuật mới. Sự ra đời của các đơn vị đặc công đánh dấu một bước phát triển đáng kể của Sư đoàn trong giai đoạn đó.

          Bộ chỉ huy Mặt trận Quảng Ngãi được thành lập, do đồng chí Lư Giang, Sư đoàn trưởng Sư đoàn Sao Vàng làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Phạm Viết Thuật (tức Biền) Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi làm Chính ủy.

          Chiến dịch mở màn vào ngày 22-8 và kết thúc vào ngày 5-10. Gần một tháng rưỡi hoạt động, các chiến sĩ Trung đoàn 22 đã góp phần quan trọng diệt 2.546 tên Mỹ, ngụy, diệt gọn một tiểu đoàn và 10 đại đội, san bằng bốn cứ điểm, góp phần cùng Mặt trận Quảng Ngãi tiêu diệt 8.921 tên địch, bắn cháy 49 xe quân sự, có 25 xe thiết giáp, bắn rơi 17 máy bay, hỗ trợ cho 47 cuộc đấu tranh quy mô của 39.870 lượt đồng bào thị xã Quảng Ngãi và các huyện Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Bình Sơn, Sơn Tịnh nổi dậy đấu tranh giành quyền làm chủ.

          Thắng lợi của chiến dịch đã được Đảng ủy Mặt trận Quảng Ngãi đánh giá là “to lớn, toàn diện, có chất lượng cao… Đặc biệt là đã đẩy phong trào chiến tranh nhân dân địa phương trên chiến trường Quảng Ngãi lên một bước phát triển mới”.

 12NHỮNG THÁNG NĂM GIAN KHỔ NHẤT

P1-58
Cán bộ, chiến sĩ rút kinh nghiệm sau trận đánh. Ảnh tư liệu.

          Báo chí Mỹ cũng phải chua cay bình luận “Chiến trường Việt Nam là một nấm mồ không đáy chôn vùi danh tiếng biết bao tướng lĩnh và chính trị gia tài năng của Hoa Kỳ”.

          Sau cuộc tấn công và nổi dậy của quân và dân miền Nam Xuân 1968, Giônxơn đổ, đầu năm 1969, Níchxơn lên thay. Ngay từ những giây phút đầu tiên bước vào Nhà trắng, để xoa dịu làn sóng chống chiến tranh đang dấy lên khắp nước Mỹ, y đã long trọng hứa sẽ rút dần Quân đội Mỹ về nước, giao toàn bộ công việc cho Quân lực Việt Nam cộng hòa đảm nhiệm. Đó cũng là nội dung cơ bản của học thuyết “Việt Nam hóa chiến tranh”, dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam, hết sức thâm độc của y. Tuy nhiên, việc Ních-xơn phải cam kết rút dần Quân đội Mỹ về nước, kết thúc chiến lược “chiến tranh cục bộ” là một bước lùi, một thất bại hết sức cay đắng của Mỹ.

P1-59
Máy bay B52 của Mỹ ném bom giải thảm. Ảnh tư liệu.

          Để tiến hành học thuyết kể trên, quân Mỹ và quân Ngụy tiến hành ráo riết, liên tục kế hoạch “bình định nông thôn” trên toàn bộ lãnh thổ Nam Việt Nam. Biện pháp này được y đánh giá như là “chìa khóa” của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.

          Song song với việc tìm diệt các đơn vị chủ lực Quân Giải phóng và càn quét, đánh phá cơ sở cách mạng ở đồng bằng, bọn địch tiến hành một chiến dịch gom dân khốc liệt hơn nhiều trên một qui mô cũng lớn hơn nhiều. Chúng xúc tát dân ở vùng giáp ranh đổ xuống các thành phố, thị xã, thị trấn, thiết lập những khu dồn hàng vạn người rồi rót tiền của vào đó. Chỉ trong một thời gian ngắn, chúng đã biến những làng mạc vùng giáp ranh thành những vùng đất hoang vắng. Nếu như trước đây, trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”, Giônxơn làm một thì bây giờ Níchxơn làm mười. Nham hiểm hơn, Níchxơn còn chủ trương đánh cả vào những tập quán, đạo lý của người Việt Nam. Đó cũng là một trong những chiếc chìa khóa lợi hại mà Níchxơn trao cho đội quân “bình định” của y.

P1-60
Hố bom B52. Ảnh tư liệu.

          Ở địa bàn Khu 5, sau những cuộc xúc tát dân khốc liệt, lực lượng quần chúng làm chủ ở các thôn ấp từ một triệu rưỡi người chỉ còn năm mươi vạn. Do gặp quá nhiều khó khăn, các đơn vị chủ lực của Quân khu cũng phải giảm bớt. Trong khi đó, lực lượng chủ lực của quân ngụy cứ mỗi ngày một tăng thêm. Mọi thủ đoạn tàn ác, xảo quyệt nhất địch đều đem ra áp dụng. Từ dụ dỗ, mua chuộc, vô hiệu hóa cơ sở cách mạng, dùng kinh tế đến việc dùng vũ lực như máy bay B52 ném bom giải thảm; máy bay phản lực, trực thăng, xe tăng, thiết giáp, phun lửa, rải chất độc hóa học tàn phá xóm làng, ruộng vườn, cây cối ở đồng bằng và căn cứ của ta ở núi rừng… Chúng cố tạo nên sự tương phản giữa hai vùng. Một bên là chết chóc, bom đạn, đói khát một bên là yên tĩnh, no đủ… để đi đến mục đích then chốt là xóa sạch thế “da báo” ở đồng bằng, tiến tới tiêu diệt tận gốc rễ phong trào cách mạng Khu 5.

          Bắt đầu từ cuối năm 1968, đầu 1969, cách mạng miền Nam nói chung, Khu 5 nói riêng lại phải đương đầu với những thử thách mới. Không ít những cá nhân, bộ phận bị mê muội hoặc sa sút ý chí chiến đấu, dẫn tới việc đầu hàng địch. Nhiều chiến trường rơi vào hoàn cảnh đói cơm, thiếu đạn trầm trọng và kéo dài. Có thể nói, năm, tháng này là thời kỳ khó khăn nhất, gian khổ nhất, thử thách nhất đối với các chiến sĩ Trung đoàn 22 và các đơn vị trong Sư đoàn 3 – Sao Vàng.

          Giành lại từng người dân, từng tấc đất trở thành nỗi day dứt không nguôi của mỗi chiến sĩ, cán bộ, đảng viên Sư đoàn Sao Vàng nói chung, Trung đoàn 22 nói riêng trên chiến trường miền Trung trong giai đoạn này.

 13MÙA XUÂN NĂM 1969

P1-61
Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 22 thảo luận phương án tác chiến trên sa bàn. Ảnh tư liệu sư đoàn 3.

          Trước những âm mưu và thủ đoạn nham hiểm khốc liệt của địch, Sư đoàn gặp rất nhiều khó khăn về quân số, vũ khí, đạn dược, gạo… Trung đoàn 12 ở chiến trường phía Nam tỉnh Bình Định có trận đánh khi trở về, cán bộ, chiến sĩ phải nhường nhau từng nắm ngô rang, từng hạt gắm ăn trừ bữa. Trung đoàn 22 và Trung đoàn 2 gần sự chi viện của Quân khu hơn nhưng vẫn không sao khắc phục được những khó khăn ấy, vì ngay Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu cũng đang đứng trước tình trạng đói gạo, thiếu muối gay gắt.

          Để phối hợp với chiến trường chung và giải quyết những khó khăn thực tế đang diễn ra trên chiến trường, vào giữa tháng 2-1969, Bộ tư lệnh Quân khu chỉ thị cho Sư đoàn Sao Vàng khẩn trương hành quân thọc thẳng xuống vùng sâu, phối hợp với các lực lượng bộ đội tỉnh, huyện, du kích và nhân dân địa phương mở chiến dịch Xuân và Hè ở Trung và Nam tỉnh Quảng Ngãi. Đối tượng tác chiến chủ yếu vẫn là Sư đoàn Amêricơn Mỹ và Sư đoàn 2 ngụy.

P1-62
Các chiến sĩ tấn công địch. Ảnh tư liệu.

          Thực hiện chủ trương của Quân khu, Sư đoàn quyết định mở đợt hoạt động trên hai hướng. Hướng phía Bắc ở vùng ven thị xã Quảng Ngãi với nhiệm vụ diệt ngụy. Hướng phía Nam ở Mộ Đức, Đức Phổ với nhiệm vụ kèm Mỹ.

          Đêm 22 rạng ngày 23-2, các chiến sĩ đặc công nổ phát súng đầu tiên mở màn chiến dịch. Cứ điểm Gò Huỷnh, Đồi Tranh, Gò Đa, Núi Chóp và hàng loạt cứ điểm khác bị tiến công. Ở Núi Chóp, Đại đội đặc công Trung đoàn 22 đã đánh một trận xuất sắc, diệt gọn một đại đội Mỹ 80 tên, phá hủy ba khẩu pháo 105 ly.

          Phối hợp với chủ lực, tiếng súng tiến công của quân dân Quảng Ngãi cũng rộ lên mạnh mẽ ở khắp nơi. Chỉ trong một đêm hàng chục đồn bốt, hàng trăm khu dồn đã được giải phóng. Bà con náo nức ùa ra đường đón bộ đội, không khí sôi sục như những ngày đầu năm 1968. Đồng bào ở các huyện Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, ở các vùng ngoại vi thị xã Quảng Ngãi cùng du kích tham gia đào hầm hào chôn mìn, cất giấu tài sản, chuẩn bị đánh địch phản kích. Ngày hôm sau 23-2, sau khi công binh Sư đoàn đánh sập cầu Châu Ổ trên đường số 1, đã tạo thêm đà cho quân dân ta thọc sâu vào các thị trấn, thị xã…, lực lượng vũ trang địa phương đột nhập vào yếu khu Trà Khúc và khu vực cảnh sát trong thị xã Quảng Ngãi. Đại đội bảo an bảo vệ khu vực này bị tiêu diệt gọn. Các đại đội đặc công, biệt động thành, du kích mật, Tiểu đoàn đặc công Quân khu… cũng tiến đánh Trụ sở tình báo Mỹ, làm chủ nhiều khu vực và đường phố trong thị xã Quảng Ngãi. Không cam chịu thất bại. Hôm sau, ngày 24-2, địch đã tung ra 6 tiểu đoàn bộ binh và 3 chi đoàn xe bọc thép chi viện cho cuộc hành quân. Nhưng tất cả bọn địch từ trong thị xã đánh ra, ngoài Nghĩa Hành, Tư Nghĩa đánh vào đều bị các chiến sĩ Trung đoàn 22 chặn đứng trên các cánh đồng và làng mạc. Cuộc giải tỏa của địch đã thất bại.

          Không khí chiến đấu sôi động ở khắp nơi làm bọn địch trong thị xã nhốn nháo. Thừa thắng, lực lượng vũ trang tỉnh và một bộ phận chủ lực của Quân khu tiếp tục đánh chiếm thêm một số khu vực trong thị xã vào đêm 24-2.

          Suốt hai ngày, hai đêm liền, Sư đoàn 2 ngụy vẫn không nhích thêm được một bước. Tình huống đó buộc chúng phải tung nốt số xe bọc thép còn lại hỗ trợ cho bộ binh, hòng đánh bật các chiến sĩ Sao Vàng ra khỏi ngoại vi thị xã. Nhưng hơn 40 xe tăng và xe bọc thép làm lá chắn cho tám tiểu đoàn bộ binh vẫn không xoay chuyển được cục diện.

          Dự kiến tình hình có thể xảy ra, Sư đoàn trưởng Lư Giang ra lệnh cho các đơn vị chuẩn bị chuyển sang phương án 2: Đón đánh Lữ đoàn 11, Sư đoàn Amêricơn Mỹ từ phía Nam ra chi viện cho quân ngụy ở thị xã. Mặt khác, vẫn bí mật điều phần lớn Trung đoàn 22 từ hai thôn Sơn Lộc, Sơn Nam xã Nghĩa Thắng chuyển qua hai thôn Điền Trang, La Châu xã Nghĩa Trang, huyện Tư Nghĩa tạo thế bất ngờ mới, tiếp tục bám đánh Sư đoàn 2 ngụy.

P1-63
Cứ điểm của Mỹ ở Đức Phổ năm 1969. Ảnh tư liệu.

          Ở hai thôn nhỏ này, ba tiểu đoàn ngụy cùng với hai chi đoàn xe bọc thép đang sống dở chết dở, bị bồi tiếp một quả đấm thứ hai đành phải kéo nhau chạy khỏi Điền Trang. Hai cánh quân khác cũng bị các tổ đặc công, pháo binh, bộ binh Trung đoàn 22 đánh thiệt hại lớn ở gần quận lỵ Nghĩa Hành. Đến đây, Sư đoàn 2 ngụy không còn lực lượng để tiếp tục ném vào cuộc giải tỏa vùng ven Quảng Ngãi được nữa. Lực lượng duy nhất có thể giúp Sư đoàn 2 ngụy thoát khỏi vũng lầy ở ngoại vi thị xã Quảng Ngãi là Lữ đoàn 11 thuộc Sư đoàn Amêricơn Mỹ. Nhưng Lữ đoàn này cũng đang bị Trung đoàn 2 tiến công liên tục và bị giam chân ở vùng Mộ Đức, Đức Phổ.

          Cùng với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, các tổ du kích, những đội công tác vũ trang địa phương, trận đánh nào, chiến dịch nào cũng có mặt. Họ tham gia chặn một mũi, một hướng, hoặc chốt lại, thành lập chính quyền ở các thôn, xã mới được giải phóng.

          Từ quận lỵ Mộ Đức, Đức Phổ, chiến sự lan dần ra các khu vực Thanh Lâm, Trà Câu… quân Mỹ buộc phải co dần thành từng cụm và di chuyển liên tục để tránh những đòn pháo kích và nhũng trận tập kích nhỏ, hiểm hóc của các đơn vị đặc công. Chúng đã bị kèm chặt không còn khả năng nống lên phía Bắc giải tỏa cho thị xã theo sự kêu cứu của Sư đoàn 2 ngụy.

          Trước tình hình đó, tên Tỉnh trưởng Quảng Ngãi đành phải ra lệnh cho quân ngụy rút bỏ ngót hai chục đồn bốt, cứ điểm, dồn lực lượng về bao quanh các khu vực ven thị xã và đường số 1.

          Theo dõi từng biến động di chuyển của các đơn vị địch, Bộ tư lệnh Sư đoàn quyết định đưa Trung đoàn 2 (thiếu Tiểu đoàn 1) từ phía Nam ngược lên phía Bắc phối hợp với Trung đoàn 22 quyết đánh cho Trung đoàn 4, Trung đoàn 5 ngụy qụy hẳn ở khu vực ven thị xã. Tiểu đoàn còn lại của Trung đoàn 2 sẽ cùng với các đơn vị của Quân khu và địa phương tiếp tục kìm chân Lữ đoàn 11, Sư đoàn Americơn Mỹ ở Mộ Đức, Đức Phổ, không cho chúng hành quân lên phía Bắc. Tại khu chiến mới này, Trung đoàn 22, Sư đoàn 3 – Sao vàng hoạt động rất tích cực. Các Tiểu đoàn 7, 8, 9 của Trung đoàn đã thay nhau liên tục tấn công, phục kích, tập kích, phá ấp chiến lược ở vùng ven thị xã Quảng Ngãi. Nhiều lần còn phối hợp với địa phương tấn công vào thị xã. Sư đoàn 2 ngụy đi giải tỏa liền bị quân ta chặn đứng, đánh tan tác. Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn, Trung đoàn của ta nhiều trận đi xuống trực tiếp chỉ huy từng hướng để bảo đảm kế hoạch chung.

          Quân Mỹ, quân ngụy ở Quảng Ngãi đang phải chịu sức ép rất nặng nề. Về phía Trung đoàn 22, cũng đã từng xảy ra những trận đánh rất quyết liệt ngoài ý muốn.

          Tại thôn Vạn An (xã Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa), nơi đóng Sở chỉ huy Trung đoàn 22. Nhân dân trong thôn ban ngày đi sơ tán, ban đêm lại trở về dọn dẹp nhà cửa… Thừa cơ, bọn thám báo trà trộn trong dân vào thôn trinh sát. Chúng phát hiện thấy rất nhiều đường dây điện thoại rải đi các ngả, chúng phán đoán chắc là cơ quan chỉ huy. Sau 3 ngày đứng chân, vào 7 giờ sáng ngày thứ tư, từng tốp phản lực ba chiếc một thay nhau ném bom dữ dội, sau đó các trận địa pháo bắn cấp tập vào thôn Vạn An. Đến 11 giờ trưa, 3 tiểu đoàn bộ binh và 10 xe bọc thép tấn công liên tục vào Trung đoàn bộ. Các đồng chí trợ lý tác chiến chạy như con thoi điều động bố trí lực lượng vệ binh, thông tin, trinh sát phòng ngự đánh trả quyết liệt, bẻ gãy các đợt tấn công của địch. Khoảng 2 giờ chiều, địch ném bom phá, kết hợp bom napan, đồng thời bắn pháo cấp tập vào thôn. Lính bộ binh, xe bọc thép tấn công liên tục vào hướng Trung đội vệ binh. Đến 3 giờ chiều, địch chiếm được một khu vực trong thôn. Trung đoàn phải điều một lực lượng của Tiểu đoàn 9 vận động đánh vào bên sườn quân địch. Phối hợp với hỏa lực, trinh sát, thông tin… đánh bật quân địch ra khỏi làng, khôi phục lại trận địa. Gần 5 giờ chiều, địch dùng pháo bắn dồn dập vào làng, cho bộ binh, xe bọc thép rút lên đường số 1, để lại trên cánh đồng hơn 100 xác chết, 5 xe M113 bị bắn cháy. Cảnh tượng trận địa thật khủng khiếp. Nhà cháy, cây đổ ngổn ngang, xác người, xác súc vật cháy khét lẹt. Đau lòng hơn là một quả bom xăng đã rơi trúng trên nóc hầm mà các đồng chí chỉ huy đang ngồi ở dưới. Tất cả 6 đồng chí đã hy sinh vì ngạt thở. Đó là các đồng chí: Nguyễn Văn Hồng, Phó Tham mưu trưởng Sư đoàn được cử xuống hỗ trợ cho Ban Chỉ huy Trung đoàn 22; đồng chí Nguyễn Văn Thị, Trung đoàn trưởng; đồng chí Nguyễn Văn Luyện, Phó Trung đoàn trưởng; đồng chí Nguyễn Văn Thôi, Trợ lý Tác chiến; đồng chí Trần Văn  Đưởng, Trợ lý Trinh sát và 1 đồng chí công vụ.

          Đây là một tổn thất chưa từng xảy ra với Trung đoàn 22. Sau trận này, Trung đoàn 22 để một tiểu đoàn bộ binh ở lại đồng bằng hoạt động, còn lại hành quân lên Núi Lớn, Dốc Cọp củng cố. Ít ngày sau, cấp trên điều đồng chí Lê Chí Thuận (Thuận nẹt) về làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Tạ Đình Cơ làm Phó Trung đoàn trưởng. Sau đó Trung đoàn tiếp tục xuống đồng bằng Quảng Ngãi hoạt động.

          Đầu tháng 4-1969, một đại đội lính Mỹ đổ quân xuống đồn Dạ Lan (Ba Tơ) đánh phá vùng căn cứ của ta. Ngày 17 tháng 4 năm 1969, chúng dẫm trúng mìn, một tên chết, một tên bị thương. Đến thôn Trường Khánh (Khánh Giang – Trường Lệ, xã Hành Tín, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi), chúng trú quân tại gò Ông Công, bắn chết một bà già, bắn bị thương 1 em bé, đốt nhà, đánh người, hãm hiếp phụ nữ. Khoảng 11 giờ trưa ngày hôm sau, lính Mỹ lùng sục vào xóm Trường Lệ trong lúc nhiều gia đình đồng bào H’re đang ăn cơm trưa. Chúng xả súng, có người gục ngã, cắm đầu vào nồi cơm, xoong canh. Chúng tiếp tục truy lùng đồng bào ta đang núp dưới các hầm tránh pháo, gọi lên bắn từng người một. Sau đó chúng chất đót khô lên các xác chết rồi rải xăng bột đốt cháy. Ở xóm này lính Mỹ đã sát hại 49 người, chỉ còn bé Ngân bị thương ở chân sống sót, trốn trong bụi rậm. Đến một điểm khác thấy đồng bào ta tập trung dưới bóng tre, lính Mỹ xả súng bắn chết 15 người, 4 cháu bé dưới 10 tuổi bị lấp dưới đống xác chết, địch không phát hiện nên còn sống sót. Những nạn nhân trong vụ thảm sát này hầu hết là người già, phụ nữ và trẻ em. Sau khi giết hại đồng bào ta, quân Mỹ cho máy bay đánh bom và bắn pháo liên tục trong nhiều ngày đêm liền. Tổng cộng tại thôn Trường Khánh trong ngày 18-4-1969, quân Mỹ đã tàn sát dã man 63 thường dân người dân tộc H’re và người Kinh. Cảnh tượng này đã làm cho cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 22 vô cùng đau xót và căm thù, thề quyết trả thù cho đồng bào ở Khánh Giang, Trường Lệ, những người đã giúp đỡ rất nhiều cho Trung đoàn trong những ngày đầu hoạt động ở Quảng Ngãi.

          Như vậy là cho đến đầu tháng 5-1969, mặt trận Quảng Ngãi vẫn hình thành hai khu vực: Phía thị xã Trung đoàn 22 diệt ngụy, phía Nam tỉnh Trung đoàn 2 kèm Mỹ.

          Giữa lúc quân chủ lực địch ở Quảng Ngãi đang trong tình trạng khốn đốn thì Đảng ủy và Bộ chỉ huy Mặt trận Quảng Ngãi cho đội quân chính trị và binh vận xuất hiện, kết hợp tài tình với những trận đánh của lực lượng vũ trang, đúng vào ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3, tại thị xã Quảng Ngãi đã bùng dậy ngọn lửa đấu tranh sôi sục của 8.000 đồng bào đòi Mỹ rút quân, đòi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu phải đền bù tài sản do bom đạn Mỹ gây ra. Hàng vạn đồng bào ở các huyện Mộ Đức, Đức Phổ, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Sơn Tịnh… cùng nổi dậy đạp đổ hàng rào dây thép gai, đốt cháy ấp chiến lược trở về làng cũ. Hàng trăm tên chỉ điểm, cán bộ ngụy quyền bị bắt.

          Vùng giải phóng ngày càng được mở rộng. Thanh niên Nam nữ ở các thôn xã nô nức lên đường tòng quân. Chỉ tính riêng hai huyện Sơn Tịnh và Nghĩa Hành, trong vòng ba tháng kể từ khi bắt đầu chiến dịch đã có 2.000 người tạm biệt quê hương gia nhập Quân giải phóng và đi dân công hỏa tuyến.

          Bị mất một vùng đất đai và dân cư rộng lớn giữa đồng bằng là điều đắng cay nhất đối với quân Mỹ và quân ngụy ở Quảng Ngãi. Cái đau không chỉ ở quân số bị loại khỏi vòng chiến đấu lên tới hơn một vạn tên mà còn ở phong trào cách mạng địa phương, phong trào chiến tranh du kích ngày càng phát triển, uy hiếp trực tiếp kế hoạch “bình định nông thôn”, “rút quân trong danh dự” của Mỹ. Tính từ đầu năm cho đến hết tháng 3-1969, đã có gần một vạn dân ở các khu dồn được giải phóng, hai vạn khác đứng lên làm chủ, 40 khu dồn và “ấp chiến lược” bị phá. Sư đoàn Sao Vàng và các lực lượng vũ trang Quảng Ngãi đã cùng toàn Quân khu, toàn miền tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, đánh vào hơn 400 mục tiêu quân sự.

          Thắng lợi của chiến dịch Xuân 1969 trên chiến trường Quảng Ngãi mang sắc thái rõ rệt của một chiến dịch tiến công tổng hợp. Chiến dịch đã khẳng định vai trò to lớn của nhân dân và các lực lượng vũ trang địa phương. Cũng giống như mùa Xuân năm 1968 trên chiến trường Bình Định, khi có Sư đoàn Sao Vàng kèm Mỹ, diệt ngụy, các lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân Quảng Ngãi táo bạo tiến công thẳng vào trung tâm thị xã Quảng Ngãi và nhiều thị trấn khác nằm dọc theo đường số 1.

          Qua chiến dịch Xuân – Hè năm 1969 ở Quảng Ngãi đã chứng minh rõ thêm cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 22 đã thích ứng với mọi hoàn cảnh, mọi chiến trường, đối tượng tác chiến dù là “kỵ binh bay”, “không vận” hay chủ lực ngụy cũng có thể đánh bại chúng bằng thực lực của mình.

* * *

          Ngày mồng 2-9-1969, một ngày mà toàn Đảng, toàn dân ta không bao giờ quên. Bác Hồ kính yêu đã đi xa.

          Nỗi đau của các chiến sĩ là nỗi đau của những người con đang chiến đấu ở nơi xa, đột ngột nghe tin người Cha thân yêu đã mất tại quê nhà.

          Đêm hôm ấy cả Trung đoàn không ngủ. Những cán bộ lớn tuổi, từng theo Bác vượt qua hai cuộc kháng chiến gian khổ, nhiều người không ghìm được đã ôm ghì chiếc đài bán dẫn trước ngực khóc nấc lên. Những chiến sĩ trẻ nằm khóc lặng lẽ trên võng. Sáng dậy, mắt người nào cũng thâm quầng. Có đau xót nào hơn khi nhìn tấm ảnh Bác đang mỉm cười âu yếm với mình như mọi lần mà phải nói lời vĩnh biệt. Những năm tháng gian khổ, ác liệt vừa qua, dù ở xa nhưng hình ảnh Bác luôn ở trong trái tim chiến sĩ. Có mùa xuân nào, cán bộ, chiến sĩ không xúm quanh chiếc đài bán dẫn trong một hang đá hoặc một chiến hào, hoặc trên đường hành quân để nghe Bác chúc Tết, mừng xuân mà cảm thấy như đang quây quần quanh Bác. Dù gian khổ, ác liệt nhưng mỗi lần nghe thơ Bác, nghe lời kêu gọi của Bác, mỗi chiến sĩ thấy mình lớn lên, sức mạnh và lòng tin được nhân lên để chiến thắng kẻ thù, vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Biết bao cán bộ chiến sĩ trước khi ngã xuống vẫn hô vang: “Bác Hồ muôn năm!”. Thế mà giờ đây Bác không còn nữa… Ai cũng thấy day dứt và ân hận vì chưa làm trọn được điều Bác mong mỏi không nguôi: Giải phóng miền Nam, đón Bác vào thăm phần đất máu thịt của Tổ quốc, phần đất “luôn luôn nằm trong trái tim” của Bác, phần đất mà “Nếu cộng tất cả nỗi đau của hai mươi triệu đồng bào miền Nam lại thì đó là nỗi đau của tôi!”.

          Ngày mồng 2-9, trái tim vĩ đại ấy đã ngừng đập. Trong một khu rừng già (ở Núi Lớn) của tỉnh Quảng Ngãi, Ban chỉ huy Trung đoàn 22 đã làm lễ truy điệu Bác Hồ ở đó. Bàn thờ được dựng lên bằng cây nứa, cây vầu, phủ trên bằng những chiếc chăn bộ đội. Đội văn nghệ của Trung đoàn đánh nhạc bài Quốc ca, bài Chiêu hồn tử sĩ, mặc niệm Bác. Tiếng đàn măng đô lin cất lên réo rắt, nhưng cũng đủ nghe, không dám gảy to vì sợ quân địch ở đèo Ông Nguyện gần đó nghe tiếng.

          Sau Lễ tang Bác, mệnh lệnh hành quân chiến đấu “Đền ơn Bác” được phổ biến xuống các đơn vị. Các chiến sĩ đính băng tang trên ngực áo, súng khoác vai, lặng lẽ hành quân. Nỗi đau đang trở thành niềm tin và sức mạnh trong trái tim các chiến sĩ.

 14ĐÁNH SÂU VÀO LÒNG ĐỊCH

P1-64
Du kích sát cánh cùng các chiến sĩ Giải phóng đánh địch. Ảnh tư liệu.

          Tháng 12-1969, Sư đoàn nhận được lệnh Quân khu trở lại Bình Định.

          Thế là các chiến sĩ Trung đoàn 22, Trung đoàn 2 và các đơn vị trong Sư đoàn lại tạm xa những vùng đất, những con người cùng chia ngọt sẻ bùi hơn một năm ròng khốc liệt. Dọc đường chuyển quân, đồng bào Kinh, Thượng lưu luyến tiễn đưa. Tạm biệt những làng quê trù phú và anh dũng ven thị xã, tạm biệt dòng sông Trà… Tạm biệt những vùng đất mà hàng trăm chiến sĩ đã nằm lại vĩnh viễn ở đó. Đội ngũ hôm nay trở về Bình Định có vắng đi vài trăm chiến sĩ, nhưng đã có thêm những chiến sĩ mới, những chiến sĩ trẻ măng vừa giật đổ rào gai ấp chiến lược, những học sinh, thanh niên trốn ngụy bắt lính trong thị xã, thị trấn tìm ra vùng giải phóng trở thành người chiến sĩ Sư đoàn Sao Vàng.

          Vượt qua những chặng đường núi cao, rừng rậm, Sư đoàn tạm thời tập kết tại khu vực dốc An Toàn ở thượng nguồn sông Côn. Đồng chí Đặng Thành Chơn (tức Tám Lý) Bí thư Tỉnh ủy Bình Định cùng với một số cán bộ trong tỉnh đã lên tận đỉnh dốc đón các chiến sĩ như đón những người thân đi chiến đấu xa lâu ngày trở về.

          Các đồng chí Tỉnh ủy cho biết sau khi Sư đoàn ra Quảng Ngãi, tại chiến trường Bình Định chỉ còn Trung đoàn 12 hoạt động ở một địa bàn quá rộng. Vì vậy, không thể kiềm chế được những thủ đoạn nham hiểm của địch trong thời điểm chúng tập trung sức “bình định cấp tốc”, “bình định bổ sung” ở những địa bàn trọng điểm. Đầu năm 1969, chúng làm thí điểm ở một số nơi như An Thái, Chòm Rừng (Tam Quan Nam); Hoài Mỹ, Chánh Khoan, Tân Phụng (huyện Phù Mỹ), rồi thực hiện đồng loạt trong toàn tỉnh. Tình hình trên gây cho tỉnh vô vàn khó khăn, tổn thất. Hầu hết những vùng giải phóng trong những năm 1967, 1968 đều bị địch chiếm lại. Chúng còn lấn sâu hơn lên vùng giáp ranh, đóng chốt trên các núi cao, càn quét, đánh phá dai dẳng những khu hậu cứ, cắt đứt các trục đường vận chuyển nối với đồng bằng.

          Tuy vậy, tấm lòng người dân Bình Định bao giờ cũng trước sau như một, luôn kiên trung, bất khuất, sống chết với cách mạng, với sự nghiệp giải phóng đất nước. Cơ sở cách mạng ở các nơi vẫn còn, vẫn vững vàng. Hiện nay tỉnh đang rất cần một lực lượng vũ trang đủ sức làm nòng cốt cho phong trào địa phương đánh phá “bình định” của địch. Giữ vững được vùng địa bàn Bình Định là giữ vững được thế chia cắt chiến dịch, chiến lược đối với địch trên toàn chiến trường Trung Trung bộ.

          Đến lúc ấy, nhiều cán bộ, chiến sĩ trong Sư đoàn mới hiểu rõ hơn vì sao Quân khu lại điều gấp Sư đoàn trở lại Bình Định.

P1-65
Các chiến sĩ Trung đoàn 22 truy kích địch. Ảnh tư liệu Sư đoàn 3.

          Cũng trong cuộc họp này, một kế hoạch tác chiến của Mặt trận Bình Định trong chiến dịch Xuân – Hè 1970 gấp rút được hình thành.

          Theo phương án chung của Quân khu, chiến dịch nhằm diệt một bộ phận sinh lực địch, kéo chủ lực Mỹ ngụy lên vùng giáp ranh, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang địa phương diệt kẹp, giành dân ở đồng bằng. Sư đoàn Sao Vàng có nhiệm vụ kết hợp với bộ đội địa phương tỉnh Bình Định khôi phục và mở rộng vùng giải phóng trong toàn tỉnh.

          Tin bộ đội Sao Vàng đã về chẳng mấy chốc được đồng bào xung quanh các xã Mỹ Hiệp, Mỹ Lộc, Hoài Hảo, Hoài Châu… loan cho nhau rất nhanh. Nhiều cụ già chống gậy đến tận nơi xem có đúng bộ đội Sao Vàng đã về không? Chị em phụ nữ từ vùng Đông giáp biển giả đi chợ gánh hàng chục gánh rau xanh, cá tươi cùng với đường, sữa, chè, thuốc lên làm quà cho đơn vị. Các cuộc gặp mặt giữa quân và dân diễn ra thật cảm động. Đồng bào kể cho các chiến sĩ nghe tội ác của kẻ thù trong thời gian Sư đoàn đi vắng. Những ai còn, ai mất, những kẻ nào trở mặt phản bội, những người lính cộng hòa nào tỉnh ngộ quay về với nhân dân. Nước mắt, nụ cười, niềm vui và hy vọng tràn đầy trong những lần gặp gỡ đó.

          Theo phương án cơ bản, Trung đoàn 22 và Trung đoàn 2 kìm chân, tiêu hao Lữ đoàn không vận 173 Mỹ. Trung đoàn 12 vẫn chiến đấu ở phía Nam tỉnh; đối tượng tác chiến chủ yếu là bọn bảo an, dân vệ đóng chốt kẹp dân.

          Cho đến lúc xuất quân, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Sư đoàn vẫn còn phải tính toán rất căng thẳng về tình hình cụ thể của các đơn vị. Hiện tại, mỗi đơn vị chỉ có 50 phần trăm cơ số đạn dược, làm sao có thể chiến đấu liên tục trong một thời gian dài? Hơn nữa, sau một năm chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn ở chiến trường Quảng Ngãi, bộ đội chưa được nghỉ ngơi, củng cố.

          Với tình hình ấy, trang bị ấy, sức lực ấy… vẫn đòi hỏi ở lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong Sư đoàn, Trung đoàn phải tổ chức cho bộ đội đánh thắng, đánh thắng không chỉ một trận mà phải thắng liên tục. Có như vậy mới đập được cái vỏ cứng bên ngoài của địch và đủ sức thọc sâu, đánh phá bên trong hậu phương của chúng. Hơn ai hết, Đảng ủy Sư đoàn thấu hiểu tâm tư từng chiến sĩ lúc này: Tuy khó khăn, gian khổ nhưng họ muốn đem tất cả sức mình giành lại cơ ngơi đã được xây dựng bằng công sức và xương máu của đồng đội và đồng bào trong suốt năm năm trên đất Bình Định.

          Suy đi tính lại, cân nhắc mãi, câu trả lời cuối cùng và duy nhất vẫn là dân. Phải giành lấy dân, dựa vào dân. Cái gì Sư đoàn không có, dân sẽ có. Dân mãi mãi là nguồn tiếp sức vô tận của Sư đoàn.

          Bằng cách dùng lực lượng vừa và nhỏ luồn lách đánh bọn địch phục kích rải rác trên núi, buộc chúng phải co lại. Sau một tuần, Trung đoàn 22 và Trung đoàn 2 đã đưa lọt phần lớn lực lượng xuống vùng ven, thuộc hai huyện Hoài Nhơn và Phù Mỹ.

          Bắt đầu từ tháng 01-1970, những trận đánh nhỏ lẻ liên tiếp diễn ra. Qua nhiều trận bị ta tập kích, phục kích, quân địch đã phải rút khỏi các cửa khẩu Suối Son, Dốc Dài, Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ, quân ta có điều kiện xuống đồng bằng lấy gạo và thực phẩm.

P1-66
Các chiến sĩ đặc công luyện tập sẵn sàng chiến đấu. Ảnh tư liệu.

          Ở Hoài Nhơn, đêm ngày 07-01-1970, Đại đội đặc công Trung đoàn 22 tiến công cứ điểm Gò Ú ở xã Hoài Hảo. Trận đánh kết thúc thắng lợi. Bộ đội được lệnh lui quân. Bùi Đức Sơn rút sau cùng, phát hiện còn một hầm ngầm bí mật của địch. Dù chỉ một mình, anh vẫn quyết tâm dùng chai cháy, lựu đạn bó lại thay bộc phá lần xuống đường hầm sâu để đánh địch. Dây cháy chậm của lựu đạn ngắn nên Sơn chưa lên khỏi miệng hầm thì khối lựu đạn và chai cháy nổ hất anh ra xa. Tỉnh dậy, đơn vị đã lui quân hết, anh bò ra khỏi hàng rào thì gặp bác Bảy Hồ ở xóm bên cõng anh đuổi theo đơn vị.

          Quân địch lẩn trốn dưới hầm ngầm đã bị Bùi Đức Sơn tiêu diệt gọn. Sự xuất hiện đột ngột của Sư đoàn Sao Vàng ở đồng bằng Bình Định lần này làm cho bọn địch hết sức lúng túng. Chúng huy động trực thăng, xe bọc thép và lính Mỹ phản ứng quyết liệt hòng đẩy Sư đoàn trở lại rừng núi. Sau khi phát hiện được Trung đoàn bộ Trung đoàn 22 ở gộp đá Ông Hương thuộc địa bàn xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, địch dùng bom đạn bắn phá dữ đội suốt 48 tiếng đồng hồ. Dứt phi pháo, lính Mỹ chia thành nhiều tốp vòng trong vòng ngoài, dùng thuốc nổ đánh sập các cửa hang, dùng lựu đạn hóa học ném xuống các khe sâu, làm ô nhiễm các mạch nước và gọi loa chiêu hồi. Trải qua hai ngày đêm trụ bám quyết liệt, Trung đoàn bộ 22, với sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Lê Chí Thuận đã dũng cảm đánh địch, thọc đội hình xuống hẳn đồng bằng, tiếp tục chỉ huy các tiểu đoàn, giam chân địch ở Hoài Nhơn tạo điều kiện cho Trung đoàn 2 tiến công địch ở địa bàn Phù Mỹ.

          Để tạo được thế đứng chân ở đồng bằng, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, hàng trăm người khác bị thương, chưa kể đến sự tổn thất của các lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân. Nhưng điều lớn nhất, cơ bản nhất trong giai đoạn này đối với Sư đoàn Sao Vàng nói chung và Trung đoàn 22 nói riêng, đã đạt được là sợi dây giữa nhân dân với cách mạng, giữa nhân dân với Sư đoàn đã được nối liền, mặc dù cơ sở bị địch chà xát khốc liệt.

 15TRUNG ĐOÀN 22 HOÀN THÀNH SỨ MỆNH LỊCH SỬ

P1-67
Các chiến sĩ chiếm lĩnh trận địa. Ảnh tư liệu.

          Tháng 02 năm 1970 Trung đoàn 22 giải thể là sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Trung đoàn 22 và Sư đoàn 3 – Sao Vàng Anh hùng. Gần 5 năm có mặt ở chiến trường miền Trung Trung bộ (1965 – 1970), Trung đoàn 22 đã lập nhiều chiến công xuất sắc trên địa bàn hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi.

          Cho đến ngày nay, nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng mỗi khi nhắc tới Trung đoàn 22 – Quyết Tâm, cán bộ, chiến sĩ trong Sư đoàn Sao Vàng, đặc biệt là nhân dân các huyện Hoài Nhơn, An Lão, Hoài Ân tỉnh Bình Định; Mộ Đức, Đức Phổ, Minh Long tỉnh Quảng Ngãi nhớ ngay đến các chú “Bộ đội nghĩa vụ” miền Bắc. Ở nơi đây, các chiến sĩ Trung đoàn 22 vừa từ miền Bắc vào đã cùng bà con ăn tết vui vẻ, chan chứa tình nghĩa quân dân Bắc – Nam. Và cũng ở nơi đây, các chiến sĩ Trung đoàn 22 đã làm nên chiến thắng vang dội mùa khô thứ nhất, mùa khô thứ hai ở Chợ Cát, Bồng Sơn, Đồi Mười, Xuân Sơn (Bình Định);  và những chiến công thấm đẫm máu và nước mắt ở Mộ Đức, Đức Phổ, Minh Long, Hà Thành (Quảng Ngãi); góp phần rất quan trọng đánh tan tác Sư đoàn Kỵ binh bay số 1, và đánh thiệt hại nặng Lữ đoàn Không vận 173 Mỹ. Các chiến sĩ đã cùng quân và dân các địa phương kiên cường đánh địch, bám đất, bám dân, giữ vững phong trào cách mạng. Hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn và lực lượng địa phương đã anh dũng hy sinh hoặc mang thương tật suốt đời bằng hàng trăm cách khác nhau: tấn công đồn địch, chống địch càn quét, bị xe tăng trà xát, bị khui hầm bí mật, bị chất độc hóa học từ máy bay phun xuống, bị bom napan, bị bom B52 giải thảm, bị pháo kích, phục kích… và còn chết vì sốt rét ác tính, chết đói, chết no, chết vì nước lũ cuốn trôi v.v.

          Là một trong ba Trung đoàn bộ binh của Sư đoàn Sao Vàng, chiến dịch nào Trung đoàn 22 cũng có mặt. Dù đánh tập trung trong đội hình Sư đoàn, hay hoạt động độc lập ở một hướng, các chiến sĩ Tung đoàn cũng quả cảm, kiên cường đạt hiệu suất chiến đấu cao.

          Như những hạt giống được Sư đoàn 3 – Sao Vàng và nhân dân ươm trồng trong lửa đạn, nhiều đồng chí của Trung đoàn 22 đã trưởng thành nhanh chóng, trở thành cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn, như đồng chí Nguyễn Duy Thương, Sư đoàn trưởng; đồng chí Nguyễn Sơn Diệp, Lê Chí Thuận, Lê Anh Sáng, Phó Sư đoàn trưởng Sư đoàn Sao Vàng. Nhiều đồng chí qua đơn vị khác cũng trở thành cán bộ trung, cao cấp trong Quân đội. Một số đồng chí chuyển ngành sang dân sự cũng phấn đấu trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, những giáo sư, tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ… phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

          Các chiến sĩ Trung đoàn 22 năm ấy dù trẻ nhất, nay cũng đã trở thành lớp người “xưa nay hiếm”. Tuy vậy, họ vẫn rất lưu luyến Trung đoàn và luôn tự nhủ: Cho dù ở đâu, làm gì, trên cương vị nào, cũng phải phát huy truyền thống và giữ gìn phẩm chất quý báu của Sư đoàn 3 –  Sao Vàng Anh hùng, coi đó mãi mãi là sức mạnh, là niềm tin của họ.

 

Leave a comment

search previous next tag category expand menu location phone mail time cart zoom edit close